2. Đi xe đạp sẽ giúp chẩn đoán bệnh Parkinson
3. Chile phát triển loại vaccin chống thói nghiện rượu
4. GA hữu ích hơn HbA1c để theo dõi đường huyết
5. Béo phì có thể can thiệp vào hấp thụ vitamin D
6. Thường xuyên ăn cá rán gia tăng nguy cơ đột quỵ
7. Thiếu ngủ dễ đau tim
8. Uống trà xanh chống mất trí nhớ
9. Ích lợi khi dùng bưởi
10. Phát hiện sớm ung thư buồng trứng
11. Ăn tỏi giúp trị viêm xương khớp háng
12. Cà phê giúp giảm nguy cơ mắc tiểu đường týp 2
13. Vòng bụng tăng vì căng đầu
14.Bổ sung omalizumab vào phác đồ điều trị hen
Trẻ uống kháng sinh: Coi chừng bị hen suyễn
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Đại học Yale, việc dùng kháng sinh cho trẻ trước 6 tháng tuổi làm tăng 70% khả năng mắc hen suyễn khi trẻ bước vào thời niên thiếu.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nếu trẻ được kê đơn kháng sinh trong 1 kỳ điều trị trong vài tháng đầu đời sẽ đối mặt với việc tăng 40% nguy cơ mắc phải bệnh nan y. Tuy nhiên nguy cơ tăng lên tới 70% nếu trẻ được cho dùng kháng sinh đợt 2 đối với những nhiễm khuẩn khó trị.
Kết quả từ các nhà khoa học Yale là những kết quả mới nhất trong số các nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc dùng thuốc và căn bệnh hen suyễn ở trẻ.
Các chuyên gia chia ra 2 trường hợp để nghiên cứu. Một là, liệu thuốc có đúng là nguyên nhân của bệnh hen suyễn khi trẻ tới tuổi thiếu niên. Hai là trẻ mắc hen suyễn đó có thể vẫn mắc bệnh dù trước đó có dùng thuốc hay không.
Tuy nhiên theo những phát hiện mới nhất, các nhà khoa học kết luận rằng có mối quan hệ mạnh giữa việc dùng kháng sinh và bệnh hen suyễn, ngay cả khi tính hết các nhân tố khác có thể khiến trẻ mắc hen suyễn như gia đình có tiền sử bệnh hen suyễn.
Khoảng 1,1 triệu trẻ em ở Anh phải chống chọi với bệnh hen suyễn và nơi đây có tỷ lệ bệnh hen suyễn lớn nhất thế giới, đặc biệt là các bạn trẻ tuổi teen!
Khi còn nhỏ các bé trai thường dễ bệnh hơn các bé gái. Nhưng khi bước vào tuổi thiếu nên, các bé gái lại dễ bệnh hơn. Rất nhiều nghiên cứu đề xuất rằng việc sử dụng kháng sinh từ sớm có thể là một phần nguyên nhân.
Rất nhiều trẻ em được dùng thuốc để ngăn viêm phổi. Nhiều người hoài nghi tranh luận rằng viêm phổi là dấu hiệu của bệnh hen đã bắt đầu hình thành và không thể đổ lỗi hết cho thuốc kháng sinh.
Nhiều người khác lại cho rằng tiền sử bệnh gia đình chính là nguyên nhân. Nhóm nghiên cứu trường đại học Yale đã nghiên cứu 1.400 trẻ em để xem liệu việc sử dụng kháng sinh sớm có làm tăng nguy cơ hen suyễn khi trẻ 6 tuổi hay không.
Họ tập trung vào những trẻ được cho dùng kháng sinh trước 6 tháng tuổi chứ không phải những trẻ có vấn đề liên quan viêm phổi. Những trẻ nằm trong đối tượng nghiên cứu này cũng không có tiền sử gia đình gia đình mắc hen suyễn.
Kết quả được đăng tải trên tạp chí American Journal of Epidemiology (Dịch tễ Mỹ) chỉ ra rằng nguy cơ hen suyễn ở những bé đó tăng rất cao, thậm chí ngay cả khi trẻ chưa từng bị viêm phổi và gia đình không có tiền sử bệnh hen suyễn. Trong bản báo cáo kết quả, các nhà nghiên cứu Yale khẳng định rằng thuốc kháng sinh phá vỡ sự cân bằng của các vi sinh vật bảo vệ làm giảm sức đề kháng của trẻ.
Tiến sĩ Kari Risnes, người đứng đầu nghiên cứu cho biết: “Những kết quả từ nghiên cứu này của chúng tôi là lời khuyến nghị đối với các bác sĩ nên tránh việc sử dụng kháng sinh một cách không cần thiết.”
Đi xe đạp sẽ giúp chẩn đoán bệnh Parkinson
Theo một nghiên cứu của các bác sĩ Hà Lan đăng trên tạp chí Lancet ngày 7/1, các nhà thần kinh học kiểm tra một bệnh nhân có các triệu chứng ban đầu của bệnh Parkinson bằng cách đề nghị người này đi xe đạp.
Việc phân biệt các bệnh nhân Parkinson với những người mắc chứng rối loạn được coi là hội chứng Parkinson không điển hình là rất quan trọng vì hai bệnh này có các nguyên nhân và phương pháp chữa trị khác nhau.
Hai bệnh này có một số triệu chứng giống nhau như run chân tay, di chuyển chậm, cứng cơ và cầm đồ vật không chắc chắn. Đôi khi, kể cả công nghệ y học tiến tiến cũng không thể phát hiện những khác biệt sớm này.
Với phương pháp chẩn đoán hiệu quả và chi phí thấp - bệnh nhân có đi xe đạp được không? - các nhà nghiên cứu trên phát hiện những bệnh nhân mắc bệnh Parkinson “thông thường” có khả năng đi xe đạp tốt hơn vì họ gặp ít vấn đề về sự thăng bằng và có thể cử động ngắn và nhịp nhàng để điều khiển bàn đạp.”
Tuy nhiên, việc này qua khó đối với những người mắc hội chứng Parkinson không điển hình vì họ bị liệt trên nhân tiến triển (PSP), teo đa hệ thống (MSA) và sa sút trí tuệ DLBD.
Bệnh Parkinson là do các tế bào trong một bộ phận quan trọng của não bị chết, nơi sản sinh một chất dẫn truyền thần kinh dopamin. Phương pháp điều trị điển hình cho bệnh này là thuốc levodopa, giúp não chuyển đổi dopamin. Nhưng liệu pháp này không hiệu quả đối với những người mắc hội chứng Parkinson không điển hình.
Trong giai đoạn đầu của nghiên cứu trên, các bác sĩ đã thử nghiệm phương pháp này với 111 bệnh nhân có các triệu chứng giống Parkinson và những người không thể đi xe đạp. Kết quả là 45 người trong số đối tượng này được cho là mắc Parkinson và 64 người mắc hội chứng Parkinson không điển hình.
Sau 30 tháng theo dõi những bệnh nhân này, các bác sĩ thấy 2 trong số 45 người bị cho là mắc Parkinson không đi được xe đạp, tuy nhiên, 34 trong số 64 đối tượng còn lại có kết luận chẩn đoán cuối cùng bị mắc hội chứng Parkinson không điển hình.
Chile phát triển loại vaccin chống thói nghiện rượu
Mới đây, các nhà khoa học của Chile thông báo rằng họ đang phát triển một loại vaccin dùng để chống lại thói nghiện rượu, nhờ trung hòa một loại enzym chuyển hóa chất cồn.
Hiện loại vaccin này vẫn cần phải trải qua giai đoạn kiểm nghiệm trên người vào năm tới.
Trưởng nhóm nghiên cứu khoa Khoa học và Toán học của Chile, Juan Asenjo, cho biết, liệu pháp trên dựa vào aldehyde dehydrogenase là một nhóm enzym chuyển hóa rượu, có liên quan chặt chẽ tới thói uống rượu của con người.
Khoảng 20% dân số châu Á không có loại enzym này, vậy nên theo lời Asenjo, vaccin mới không dành cho những đối tượng như vậy.
Tác dụng phụ của loại vaccin này là tăng cường tâm trạng bồn chồn, bứt rứt, buồn nôn và tăng nhịp đập tim. Tuy nhiên, Asenjo đã khẳng định: "Chính những tác dụng như vậy sẽ khiến ham muốn uống rượu bị giảm đáng kể, và làm cho con người ý thức hơn về sức khỏe của mình trước khi nâng cốc".
GA hữu ích hơn HbA1c để theo dõi đường huyết
Các kết quả từ một nghiên cứu của Hàn Quốc cho thấy glycated albumin (GA) có thể là chỉ số tốt hơn để theo dõi việc kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân bị tiểu đường týp 2, so với glycated hemoglobin (HbA1c).
HbA1c đã được sử dụng như một “tiêu chuẩn vàng” để theo dõi và chẩn đoán tiểu đường song vẫn có sự tranh luận về các điểm giới hạn thích hợp đối với HbA1c ở các quần tộc người khác nhau và nó có thể bị ảnh hưởng bởi một vài rối loạn huyết học.
Do đó, Byung Wan Lee (Đại học Y khoa Yonsei, Seoul) và các đồng nghiệp đã nghiên cứu giá trị của GA như là một chỉ báo cho việc theo dõi ngắn hạn ở 1.038 bệnh nhân Hàn Quốc bị tiểu đường týp 2, ở độ tuổi trung bình 59,8 năm.
Các nhà nghiên cứu đã chia những bệnh này vào nhóm duy trì ổn định (n=270; dao động HbA1c chỉ dưới 0,5% qua 6 tháng) và nhóm không ổn định (n=768; dao động HbA1c cao hơn 0,5% qua 6 tháng). Sau đó họ so sánh HbA1c, GA và tỷ số GA/HbA1c trong 2 nhóm.
Như được báo cáo trên tạp chí Acta Diabetologia, Lee và nhóm nghiên cứu phát hiện thấy GA huyết thanh tương quan mạnh mẽ với HbA1c ở cả hai nhóm.
Nồng độ glucose (lúc đói và sau khi ăn) tương quan mạnh hơn với GA ở nhóm không ổn định và với HbA1c ở nhóm duy trì ổn định. Trong toàn nhóm, nồng độ glucose lúc đói và sau khi ăn tương quan với nồng độ GA mạnh hơn so với nồng độ HbA1c của bệnh nhân.
Tỷ lệ GA/HbA1c tăng cùng với tăng HbA1c và bị ảnh hưởng bởi nồng độ glucose sau khi ăn và chỉ số khối cơ thể.
Các tác giả viết: “Kết luận lại, dữ liệu của chúng tôi cho thấy GA huyết thanh có thể là chỉ số phản ánh đường hóa (glycation) hữu ích hơn so với HbA1c để theo dõi việc kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường týp 2 với tình trạng đường huyết được kiểm soát kém và dao động. Các nghiên cứu sâu hơn về mối tương quan lâm sàng của GA ở bệnh nhân tiểu đường týp 2 sẽ làm cho nghiên cứu của chúng tôi hữu ích hơn đối với việc quản lý lâm sàng của những bệnh nhân này.”
Béo phì có thể can thiệp vào hấp thụ vitamin D
Nghiên cứu mới đây của nhóm nghiên cứu Na Uy cho thấy người càng béo thì tình trạng vitamin D càng kém.
Nghiên cứu thấy rằng có mối tương quan nghịch giữa thừa cân và thiếu hụt lượng vitamin D – một vitamin quan trọng cho sức khỏe tế bào, hấp thụ calci và cho vận hành tốt chức năng miễn dịch. Thiếu hụt vitamin D có thể làm tăng nguy cơ hủy hoại xương và một số dạng ung thư.
Các nhà nghiên cứu cũng cho biết những người thừa cân và béo phì có thể gặp các vấn đề về sử dụng bình thường vitamin.
Nhóm lưu ý rằng ngay sau khi “vitamin ánh nắng mặt trời” được hấp thụ (thông qua hoặc phơi nắng hoặc ăn các thực phẩm như cá có dầu và sữa tăng cường), cơ thể phải chuyển nó thành một dạng sử dụng được, được gọi là 1,25-dihydroxyvitamin D. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này có vẻ bị hạn chế ở những người béo phì, ảnh hưởng đến các nỗ lực điều chỉnh sức khỏe vitamin D thực sự của họ.
Các kết quả được công bố trên số ra tháng 1 của tờ Journal of Nutrition.
Để tìm hiểu tác động của béo phì đối với việc hấp thu vitamin D, nhóm nghiên cứu đã dành 6 năm theo dõi 1.464 phụ nữ và 315 nam giới độ tuổi trung bình là 49. Dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI) của các đối tượng, một chỉ số về lượng mỡ cơ thể được tính theo cân nặng và chiều cao; một đối tượng tầm trung đã thể hiện là béo phì. Khoảng 11% được xếp là “béo một cách bệnh lý”.
Các tác giả cho biết ngay từ đầu nghiên cứu, nồng độ chung vitamin D đã thấy là dưới khoảng khỏe mạnh. Kết thúc nghiên cứu, nồng độ chung vitamin D bị giảm “đáng kể” trong khi BMI tăng 5%.
Nhóm nghiên cứu kết luận rằng trọng lượng, lượng mỡ cơ thể và BMI cao hơn bình thường là có liên quan với tình trạng về vitamin D xấu hơn.
Ví dụ, những người có BMI thấp nhất có nồng độ vitamin D cao hơn 14% so với những những người có BMI cao nhất.
Vì nồng độ vitamin D không tương quan chính xác với nồng độ 1,25-dihydroxyvitamin D (và trên thực tế có vẻ có mối tương quan nghịch bất thường), các tác giả gợi ý rằng các nỗ lực trong tương lai nhằm tìm hiểu tình trạng vitamin D ở người béo phì nên kiểm tra cả hai chỉ số về sức khỏe vitamin D này.
Họ cũng gợi ý rằng những người thừa cân hoặc béo phì có thể được lợi từ việc bổ sung vitamin D và phơi nắng nhiều hơn.
Thường xuyên ăn cá rán gia tăng nguy cơ đột quỵ
Đột quỵ hay còn gọi là tai biến mạch máu não là một bệnh xảy ra khi việc cung cấp máu lên một phần bộ não bị đột ngột ngừng trệ gây ra các triệu chứng thần kinh tồn tại quá 24 giờ.
Theo thống kê của Trung tâm kiểm soát bệnh tật Mỹ, đột quỵ khiến khoảng 130.000 người Mỹ tử vong mỗi năm.
Nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Emory (Mỹ) cho thấy mặc dù việc ăn cá có thể giúp hạ thấp nguy cơ mắc đột quỵ, tuy nhiên thường xuyên ăn cá rán lại làm gia tăng nguy cơ mắc đột quỵ.
Theo các nhà khoa học, các acid béo chưa bão hòa có trong các loại cá giàu chất béo như cá hồi, cá mòi, cá ngừ...có lợi cho việc hạ thấp nguy cơ đột quỵ, tuy nhiên khi rán lên các acid béo tự nhiên này sẽ chuyển hóa thành chất béo Transfat. Chất béo Transfat là một chất có hại.
Theo thống kê của các chuyên gia dinh dưỡng và các bệnh phổ biến thuộc Đại học Harvard, hàng năm nước Mỹ có khoảng 100.000 người tử vong vì chất béo Transfat.
Thiếu ngủ dễ đau tim
Ai cũng biết ngủ được sướng như… tiên. Có lẽ cũng vì thế nên các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ mới đây đã thử tìm hiểu tại sao nhiều người mất ngủ.
Kết quả thống kê với 100 đối tượng đang phải dùng thuốc ngủ cho thấy: 54% mất ngủ nguyên đêm vì xem phim gay cấn quá khuya; 27% tuy đặt lưng xuống là ngủ ngay nhưng chỉ được vài giờ thì thức giấc do làm việc quá muộn; 19% khó ngủ cho đến gần sáng vì đã uống cà phê sau 21 giờ.
Các thầy thuốc ở Hoa Kỳ tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa số giờ ngủ ngon và tình trạng xơ vữa mạch máu. Kết quả rõ hơn ban ngày là người ngủ không đủ giờ, người ngủ xong vẫn còn thèm ngủ sẽ dễ bị bệnh tim mạch, nhất là cao huyết áp, với tỉ lệ cao gấp 4 lần người đặt lưng là ngáy thẳng cẳng đến sáng bất kể xe tải có chạy rầm rầm suốt đêm ngay ngoài cửa.
Đáng nói hơn nữa là người thiếu ngủ không chỉ vướng bệnh tim. Chuyên gia về giấc ngủ đã chứng minh rằng đãng trí, béo phì, trầm cảm, liệt dương, thậm chí bệnh tiểu đường, cũng là hậu quả của nhiều đêm mất ngủ do suy giảm chức năng tư duy, dao động nội tiết tố, rối loạn biến dưỡng không hẹn mà cùng nhau gia tốc khi gia chủ trao tráo chờ sáng.
Ngủ được đủ 8 giờ mỗi đêm tất nhiên quá tốt. Tuy vậy, cũng theo báo cáo chắc như đinh đóng cột của các nhà nghiên cứu, nếu không được như thế, chúng ta chỉ cần 6 giờ ngủ ngon cũng đã thừa sức qua cầu. Trong mọi trường hợp, đừng trách cớ sao tim lo đẩy máu cho chỗ khác nhưng lại thiếu máu ngay trên thành tim, nếu ngủ không đến 4 giờ mỗi đêm.
Thêm vào đó, đừng quên nhiều người tìm thầy khắp nơi nhưng đêm nào cũng chỉ ngủ được ít giờ rồi giật mình, dù không ai đánh thức rồi thức trắng đến sáng để rồi trở dậy với cảm giác lừ đừ, tâm trạng buồn bã, đầu óc mơ mơ màng màng, tay chân nặng nề dù không hề vận động trong đêm với lý do ít ai ngờ là vì tác dụng phụ khó tránh của một số thuốc như thuốc hạ áp, bình suyễn, lợi tiểu, ngừa thai, giảm đau, chống trầm cảm…
Bệnh nhân vì thế nên bàn với thầy thuốc về việc đổi thuốc, thay vì chấp nhận được này mất kia vì mất ngủ sớm muộn cũng kéo theo mất nhiều thứ tai hại.
Đêm dài lắm mộng, ác mộng hay giấc mơ hiền hòa là chuyện khác, miễn là đêm kéo dài sao cho đủ giờ hành chính để các cơ quan trọng yếu như não, tim, gan, thận có dịp nghỉ ngơi hay tuy vẫn phải làm việc nhưng với nhịp thanh thản.
Uống trà xanh chống mất trí nhớ
Nghiên cứu này cho rằng trà xanh vốn là thức uống ưa thích của người Trung quốc xưa, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống ung thư.
Tiến sĩ Ed Okello của ĐH Newcastle cho biết: “Điều lý thú là chúng tôi đã phát hiện khi trà xanh được tiêu hóa, các chất hóa học sinh ra hoạt động hiệu quả hơn trong việc chống lại bệnh Alzheimer. Hợp chất được tiêu hóa cũng chứa các thuộc tính chống ung thư, và quan trọng nhất là làm chậm lại sự phát triển của các tế bào khối u chúng tôi sử dụng trong thí nghiệm”.
Hai hợp chất có vai trò quan trọng trong phát triển Alzheimer là hydro peroxyt và protein, hay còn gọi là beta-amyloid.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng chất polyphenol có trong trà xanh và trà đen ức chế các chất độc và bảo vệ tế bào não.
Khi được tiêu hóa, chất polyphenol bị mất đi và sản xuất ra một hợp chất. Các nhà khoa học đã thực hiện thí nghiệm với hợp chất này trong nghiên cứu của họ. Tiến sĩ Okello cho biết: “Trà xanh được sử dụng trong các bài thuốc cổ truyền Trung Hoa trong nhiều thế kỷ và những nghiên cứu của chúng tôi là những bằng chứng khoa học trả lời cho câu hỏi tại sao trà xanh có tác dụng tích cực chống lại nhiều căn bệnh chúng ta phải đối mặt hiện nay”.
Ông thêm rằng: “Tất nhiên có nhiều nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới bệnh ung thư hay mất trí nhớ như chế độ ăn uống, tập thể dục, lối sống lành mạnh. Tuy nhiên tôi cho rằng rất công bằng khi nói rằng mỗi ngày uống ít nhất một tách trà là phương thuốc kỳ diệu cho sức khỏe".
Ích lợi khi dùng bưởi
Theo báo The Times of India dẫn nguồn tin từ các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ, uống ít nhất 3 ly bưởi ép mỗi ngày giúp đốt cháy calo. Đó là nhờ bưởi chứa các loại enzym có tác dụng làm tan mỡ. Bưởi ngăn không cho đường cũng như tinh bột tích tụ trong cơ thể.
Mặc dù bưởi có vị chua song ăn bưởi lại có tác dụng trị tính acid, chất gây ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa. Với nguồn vitamin C phong phú, bưởi giúp duy trì tính đàn hồi của động mạch, đồng thời củng cố động mạch. Riêng hợp chất pectin trong bưởi giúp giảm tích tụ chất cặn bã.
Ăn bưởi thường xuyên sẽ giúp bạn tăng cường hệ miễn dịch. Đây cũng là loại hoa quả lý tưởng cho bệnh nhân tiểu đường vì giúp giảm lượng đường trong máu.
Trước khi đi ngủ, nhâm nhi một ít bưởi sẽ giúp bạn ngủ ngon, giảm triệu chứng mất ngủ. Thai phụ có thể giảm tình trạng giữ nước trong cơ thể cũng như chân sưng phù bằng cách ăn bưởi. Bạn hay bị chứng đau họng hoành hành thì hãy uống một ly bưởi tươi, qua đó giúp thông họng. Bưởi còn chứa nhiều chất chống ô-xy hóa giúp ngừa ung thư.
Phát hiện sớm ung thư buồng trứng
Như chúng ta vẫn biết, phần lớn những trường hợp bị mắc bệnh ung thư buồng trứng thường được phát hiện khi đã quá muộn. Nếu như căn bệnh này được phát hiện sớm thì tỷ lệ chữa khỏi rất cao, có khi tới hơn 90%.
Lâu nay, các bác sĩ vẫn thường chẩn đoán bệnh này dựa trên mức độ thay đổi của các chất có tên: CA-125 trong máu của bệnh nhân. Tuy vậy một tỷ lệ chẩn đoán sai khi áp dụng phương pháp này là rất cao. Trong môt số người thì lượng chất CA-125 thay đổi thất thường, nhưng trên thực tế, họ lại không hề bị ung thư. Thế nhưng ở một số người khác, mặc dù lượng CA-125 tăng cao nhưng họ lại không ung thư buồng trứng mà đã mắc một bệnh ung thư khác…
Theo như bản báo cáo y khoa mới nhất của Trung tâm Ung thư M.D. Anderson thuộc Đại học Texas tại Houston, đã nói tới phương pháp mới giúp phát hiện căn bệnh này một cách hiệu quả hơn hẳn so với những phương thức truyền thống khác. Đó là phương pháp dùng máy vi tính xử lý một thuật toán rất phức tạp, kết hợp cùng những yếu tố như: tuổi tác, lượng CA-125 tăng cao trong máu và thời gian diễn ra thay đổi của những lượng CA-125 tăng cao.
Cônh trình nghiên cứu y học này luôn chú ý đến việc chẩn đoán bệnh của giai đoạn đầu mới hình thành và phát triển, nghĩa là lúc ung thư vẫn còn chưa di căn và lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Thời gian nghiên cứu theo dõi của công trình diễn ra trong 9 năm và dựa trên dữ liệu áp dụng từ hơn 3.200 phụ nữ, trong độ tuổi từ 50-74.
Trong số này có khoảng 1/3 số phụ nữ trên bị chẩn đoán có nguy cơ rất cao và sau khi phẫu thuật được xác định bị ung thư buồng trứng. Theo GS. Karen Lu, một chuyên gia về ung thư phụ khoa, đồng thời cũng là một thành viên của nhóm nghiên cứu, thì đây là một kết quả dự báo cực kỳ chính xác. Khi công trình này hoàn thiện và đi vào thực tế, nó sẽ giúp cứu sống được nhiều người mắc bệnh ung thư buồng trứng, vì khi chẩn đoán sớm và chính xác thì việc chữa trị sẽ hiệu quả…
Ăn tỏi giúp trị viêm xương khớp háng
Các kết quả nghiên cứu điều tra gần đây tại Trường Đại học Hoàng gia London và Đại học Đông Anglia đã phát hiện những phụ nữ tiêu thụ một chế độ ăn giàu hàm lượng allium như tỏi, hành và tỏi tây sẽ giúp làm giảm nguy cơ bị viêm xương khớp háng. Các kết quả nghiên cứu này đã nhấn mạnh rằng, chế độ ăn uống hàng ngày sẽ giúp bảo vệ chống lại viêm xương khớp háng và hơn thế nữa các hợp chất như allium được tìm thấy trong tỏi có khả năng phát triển thành thuốc điều trị viêm xương khớp háng.
Viêm xương khớp là hình thức phổ biến nhất của viêm khớp thường xảy ra ở người lớn và ảnh hưởng tới khoảng 8 triệu người ở Anh, đặc biệt là phụ nữ. Viêm xương khớp gây đau đớn và tàn tật do ảnh hưởng tới khớp háng, khớp gối và xương sống ở người trong độ tuổi trung và cao niên. Cho đến nay chưa có thuốc điều trị hiệu quả. Do vậy, bệnh nhân viêm khớp thường phải thay khớp khi bị viêm khớp mạn tính.
TS. Williams, Trường Đại học Hoàng gia London cho biết, trong khi vẫn chưa biết nếu ăn tỏi nhiều sẽ dẫn tới làm tăng hàm lượng của thành phần allium giúp phòng ngừa và điều trị bệnh viêm xương khớp háng. Do vậy, từ các kết quả nghiên cứu này, bác sĩ có thể áp dụng và bổ sung chế độ ăn uống có hàm lượng allium cao như tỏi, hành và tỏi tây đối với bệnh nhân bị viêm xương khớp háng để giúp nâng cao khả năng phòng ngừa và điều trị viêm xương khớp háng.
Cà phê giúp giảm nguy cơ mắc tiểu đường týp 2
Mới đây, các nhà khoa học thuộc Đại học California, Los Angeles (UCLA), Mỹ đã nghiên cứu và phát hiện ra rằng chất caffein trong cà phê có tác dụng rất tốt trong việc đẩy lùi nguy cơ mắc tiểu đường týp 2.
Cụ thể hơn, nếu chúng ta uống 4 ly cà phê mỗi ngày thì nguy cơ này sẽ giảm 50% so với những người không uống.
Thực vậy, loại thức uống thơm ngon này có thể kích thích cơ thể sản xuất ra một lượng lớn protein hay còn được biết đến là một globulin gắn hormon sinh dục.
Một nghiên cứu của tạp chí y học New England Journal of Medicine đã chứng minh rằng, nồng độ của loại hormon này trong máu càng cao thì cơ thể sẽ càng được bảo vệ chống lại sự phát triển của bệnh tiểu đường týp 2. Kết luận này đặc biệt đúng đối với nữ giới.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng điều này không còn đúng đối với những ai “nghiện” cà phê đã tinh lọc caffein. Bởi caffein đã được khử hết đồng nghĩa với việc không có yếu tố kích thích tăng nồng độ protein SHBG, thì uống cà phê sẽ không còn tác dụng kìm hãm sự phát triển của bệnh tiểu đường.
Tuy nhiên, nghiên cứu này dường như mâu thuẫn với một kết quả đã được công bố vào năm 2006. Trước đây, người ta cho rằng căn bệnh tiểu đường týp 2 chỉ có thể bị kiềm chế nếu nữ giới uống tới 6 ly cà phê mỗi ngày.
Điều đáng nói là đây phải là loại cà phê đã lọc caffein. Về mặt nào đó, cà phê nguyên chất chưa tinh lọc cũng có tác dụng này, nhưng không hiệu quả bằng cà phê đã lọc.
Ngoài ra, còn nhiều ý kiến khác cho rằng việc sử dụng thức uống này còn gây hại cho bệnh nhân tiểu đường bởi nó có thể cản trở sự phân hủy glucose của cơ thể.
Vòng bụng tăng vì căng đầu
Chuyên gia về stress ở ĐH Munich (CHLB Đức) vừa đưa ra lời giải thích tại sao nhiều người, nam- nữ cũng thế, có vòng số 2 vượt chỉ tiêu mặc dầu cuộc sống của họ căng thẳng từ sáng đến tối.
Trước hết, nếu tưởng người thường bị stress gặm nhắm là đối tượng mệt nhoài đến độ nuốt cơm không vô thì lầm. Trái lại là khác, 80% người phải đồng hành cùng stress tuy không vui gì, tuy có thể khó ngủ nhưng lại ăn rất ngon miệng. Họ thậm chí ăn nhiều, ăn nhiều lần trong ngày nhưng lại ăn quá nhanh và nhất là khoái khẩu với món ngọt.
Lý do rất dễ hiểu là trước, trong và sau trận giao tranh với stress, nạn nhân rất cần năng lượng cho cơ thể nên đằng nào cũng dễ thiếu hụt đủ thứ, từ năng lượng đến chất đạm hay khoáng tố vi lượng. Nạn nhân của stress vì thế có khuynh hướng “hảo ngọt” vì đường vừa là chất cung cấp năng lượng nhanh nhất vừa có tác dụng trấn an thần kinh vốn nhạy cảm dưới kích ứng của stress. Kẹt một nỗi là thói quen ăn ngọt cũng từa tựa như ghiền cà phê, thuốc lá, nghĩa là sớm muộn cũng phải tăng “đô”. Nếu với người khác, thiếu chút đường không đến độ trầm trọng thì với nạn nhân của stress lại là chuyện chẳng khác nào thiếu... thuốc! Cũng vì quen với lượng đường cao trong máu nên nạn nhân rất dễ đói bụng và thậm chí “xấu nết” nếu không kịp ăn.
Chính vì thế mà chuyên gia về bệnh do stress đã khuyên đối tượng thuộc nhóm “hảo ngọt” này ráng tập vài chuyện không quá khó. Cụ thể:
- Đừng ăn ngọt khi căng thẳng thần kinh. Thay vào đó nên là trái táo, đậu phộng để đường huyết đừng thăng thiên. Kẹt lắm là trái cây khô vì tuy ngọt nhưng vẫn chưa bằng đường cát, bột ngọt.
- Tránh món vừa hưng phấn vừa tăng đường huyết như cà phê đá ngọt hơn chè.
- Tập thiền thay vì chọn hình thức giải trí ăn thua đủ, vì bao nhiêu stress của công việc đã quá đủ để sinh bệnh. Thêm chi cho khổ.
Bổ sung omalizumab vào phác đồ điều trị hen
Theo dữ liệu chung từ 2 nghiên cứu cho thấy, điều trị bổ sung bằng omalizumab có thể giúp bệnh nhân hen dị ứng dai dẳng từ mức độ vừa phải tới nặng giảm lâu dài lượng corticosteroid mà họ cần, đồng thời cải thiện kiểm soát hen.
Trong quá trình thử nghiệm, bệnh nhân dùng omalizumab ít yêu cầu xông corticosteroid đường miệmg hơn để điều trị cơn hen cấp tính (0,2 so với 0,3; nguy cơ tương ứng 0,56; p<0,001). Họ cũng cho thấy sự cải thiện lớn hơn trong các đánh giá lâm sàng về kiểm soát hen, bao gồm chức năng phổi, tổng số tế bào ái toan trong máu ngoại biên và điểm số trên Bộ câu hỏi 32 mục về chất lượng sống của bệnh nhân hen.
Nhóm nghiên cứu chú giải trên Annals of Allergy, Asthma and Immunology số tháng 12 rằng duy trì kiểm soát hen, trong khi giảm thiểu sử dụng corticosteroid, là một mục tiêu quan trọng của việc quản lý hen dựa trên hướng dẫn.
Omalizumab được cấp phép để điều trị hen dị ứng được kiểm soát không thoả đáng ở người lớn và trẻ vị thành niên.
Các nhà nghiên cứu đã gộp chung dữ liệu từ 2 nghiên cứu mù đôi, giả-chứng được thiết kế tương tự nhau và từ các giai đoạn gia hạn của các nghiên cứu này. Trong cả 2 nghiên cứu, bệnh nhân bị hen dị ứng dai dẳng (cả thảy 1.071) được lựa chọn ngẫu nhiên dùng omalizumab dưới da 4 tuần 1 lần hoặc giả dược 2 tới 4 tuần 1 lần trong suốt 52 tuần.
Liều corticosteroid dạng hít (ICS) được duy trì ổn định trong suốt 16 tuần đầu và sau đó giảm dần qua 12 tuần tiếp theo. Trong suốt giai đoạn 24 tuần gia hạn, bệnh nhân được duy trì liệu pháp điều trị đã được phân và liều ICS thấp nhất được thiết lập trong suốt giai đoạn giảm steroid.
Đến cuối giai đoạn gia hạn, trung vị mức giảm từ khi bắt đầu nghiên cứu về liều ICS là lớn hơn ở nhóm dùng omalizumab so với nhóm dùng giả dược (420 so với 252 mg/ngày; p<0,001).
TS Jill Karpel, giám đốc Trung tâm hen, North Shore Medical Arts LLP ở Great Neck, Long Island và Đại học Y khoa Albert Einstein, Bronx, New York cho biết: “Một thông điệp là bệnh nhân bị hen dị ứng dai dẳng từ mức độ vừa phải tới nặng mà kiểm soát hen kém mặc dù điều trị bằng corticosteroid dạng hít (và các thuốc khác) có thể hưởng lợi từ việc điều trị bằng omalizumab”.