Monday, February 28, 2011

Tin vắn y học tháng 2 - 2011 (II)


Muốn phòng chống cúm, hãy rửa tay đúng cách

Rửa tay phòng cúm

Điều tra mới nhất của Hiệp hội Vi sinh vật Mỹ và Học viện Hoa Kỳ về vấn đề làm sạch cho thấy, rửa tay đã trở thành một thói quen phổ biến ở Mỹ.

Theo kết quả công bố năm 2008, 85% số người được hỏi cho biết họ thường xuyên rửa tay ở các nhà vệ sinh công cộng. Đây là con số cao nhất từ khi các nghiên cứu về thói quen rửa tay được bắt đầu triển khai năm 1996.

Mặc dù chưa có bất kỳ cơ sở khoa học trực tiếp nào chứng tỏ rằng việc vệ sinh chân tay có thể giúp ngăn ngừa virus H1N1, nhưng nhiều chuyên gia y tế tin rằng: thói quen vệ sinh tốt đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nước Mỹ ở ngoài vòng phong tỏa của đại dịch cúm khủng khiếp này.

Trong đó, rửa tay chính là bước bản lề để giữ được thói quen vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng tốt. Những hành động như che mũi và miệng khi hắt hơi, rửa tay thường xuyên và tránh tiếp xúc qua tay chính là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.

Ông Jeff Dimond, phát ngôn viên của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh dịch Hoa Kỳ khẳng định, bàn tay thường xuyên bị dính vi khuẩn hoặc virus khi tiếp xúc với các bề mặt khác.

Một người nào đó có thể đã động vào tay nắm cửa, sờ vào bàn phím máy tính, tay vịn cầu thang hoặc sử dụng cốc chén mà bạn không biết. Virus cúm có thể sống dai dẳng tới 5 giờ trên những bề mặt tiếp xúc đó. Vì thế, bạn hoàn toàn có thể vô tình đưa virus vào trong cơ thể mình thông qua những hành động đơn giản như dụi mắt sau khi tiếp xúc với các bề mặt trên.

Rửa tay đúng cách

Cách tốt nhất để tránh cho bàn tay trở thành nơi ký sinh của những tác nhân truyền bệnh đó là rửa tay. Tuy nhiên, cần phải rửa tay đúng cách, và đây là điều mà không phải ai cũng biết và thực hiện.

Đầu tiên, bạn phải dùng xà phòng và nước ấm. Theo các chuyên gia y tế, chỉ rửa bằng nước và lau khô tay cũng có thể loại bỏ số lượng vi khuẩn nhất định. Tuy nhiên, chất bẩn và vi khuẩn cứng đầu vẫn bám trụ.

Xà bông sẽ giúp tẩy rửa các chất dầu mỡ, đất và bụi bẩn cùng những sinh vật gây hại khu trú ở đó. Chính vì thế, bạn cần kết hợp dùng xà bông và nước ấm để đạt hiệu quả cao nhất.

Bạn cũng không cần thận trọng tới mức phải dùng xà phòng diệt khuẩn để rửa tay hàng ngày. Bất kỳ loại xà phòng nào tạo bọt đều có thể giúp vệ sinh đôi bàn tay bạn. Xà phòng diệt khuẩn chỉ nên sử dụng khi bạn ở môi trường trị bệnh hoặc phẫu thuật.

Khi rửa, bạn cần chà xát mạnh hai bàn tay vào nhau, phải kỳ cọ lòng bàn tay và các kẽ ngón tay kỹ lưỡng. Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ cũng khuyến cáo: cần rửa tay tối thiểu trong 20 giây để loại bỏ hoàn toàn bụi bẩn và virus.

Khi bạn đã chà sạch tay với xà bông, dùng nước rửa sạch tay để loại bỏ bụi bẩn, cáu ghét và virus cùng với bọt xà phòng.

Khâu cuối cùng là lau khô tay. Tay ướt dễ bị bám virus từ các bề mặt tiếp xúc hơn so với tay khô. Hơn nữa, nếu để tay khô tự nhiên, da tay dễ bị nẻ và đó cũng là môi trường lý tưởng để vi khuẩn bám dính, sinh sôi.

Hiện, một số trung tâm thẩm mỹ, nơi công cộng, công sở... sử dụng dung dịch cồn rửa tay không cần nước. Bạn chỉ cần rót một chút lên tay và xoa đều cho đến khi tay bạn khô hẳn. Tuy sản phẩm này có thể diệt vi khuẩn, virus nhưng lại không thể loại bỏ hoàn toàn dị vật, bụi bẩn bám dính trên tay. Vì thế, xà phòng và nước vẫn là lựa chọn hàng đầu.
Bí quyết ngăn ngừa sẩy thai

Điều đáng sợ nhất đối với thai phụ có lẽ là bị sẩy thai.

Trong khi rất khó để biết rõ nguyên nhân gây sẩy thai trong một số trường hợp nhất định, song có vài tác nhân được biết đến làm gia tăng nguy cơ này.

Dưới đây là những lời khuyên hữu ích của các chuyên gia, nhằm giúp các thai phụ ngăn ngừa nguy cơ bị sẩy thai.

Thay đổi lối sống: Theo các chuyên gia, lối sống của các thai phụ có thể làm gia tăng nguy cơ bị sẩy thai. Để bảo đảm an toàn cho thai nhi, các thai phụ cần ngừng hút thuốc lá hoặc sử dụng ma túy ngay sau khi phát hiện mang thai. Vì cả 2 thói quen nguy hại này đều làm gia tăng nguy cơ sẩy thai. Ngay cả khi việc hút thuốc lá và sử dụng ma túy không gây ra tình trạng sẩy thai ở các thai phụ, chúng cũng có thể là tác nhân tạo ra một vài khuyết tật bẩm sinh ở thai nhi.

Chế độ ăn cũng đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ sức khỏe thai phụ. Điều quan trọng mà các thai phụ cần biết là các loại thực phẩm nào là lành mạnh, nên ăn và các loại thực phẩm nào nên tránh. Chẳng hạn như khi thai phụ tiêu thụ quá nhiều chất cafein có thể làm gia tăng nguy cơ bị sẩy thai. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng cũng có thể là nguyên nhân làm gia tăng nguy cơ này. Vì vậy, các thai phụ cần bảo đảm thực hiện chế độ ăn cân bằng dinh dưỡng và cung cấp đủ vitamin trong suốt thời gian thai kỳ.

Thăm khám thai thường xuyên: Theo Hiệp hội Sản khoa Mỹ, bệnh nhiễm trùng, các vấn đề về sức khỏe của bà mẹ và quá trình thay đổi hormon đều có thể là nguyên nhân gây sẩy thai. Để ngăn ngừa những vấn đề này, điều quan trọng là các thai phụ cần thăm khám thai thường xuyên tại các bệnh viện. Cần chú ý đến bất cứ những triệu chứng bất thường nào trong thời gian mang thai để thông báo ngay với các bác sĩ. Việc điều trị các chứng nhiễm trùng hoặc vấn đề hormon ngay lập tức, có thể giúp ngăn ngừa nguy cơ sẩy thai.

Nên mang thai khi còn trẻ: Theo giới chuyên môn, nguy cơ sẩy thai gia tăng theo độ tuổi. Theo Hiệp hội Sản khoa Mỹ, những phụ nữ tuổi từ 35-45 đối diện với sự gia tăng từ 20-25% nguy cơ bị sẩy thai. Trong khi không có biện pháp nào để kéo giảm nguy cơ sẩy thai do tuổi của người mẹ ảnh hưởng đến quá trình thai nghén, chị em được khuyến khích nên có thai trước 35 tuổi.

Điều quan trọng nữa là các thai phụ cần cảnh giác cao đối với các dấu hiệu cảnh báo sẩy thai. Tình trạng xuất huyết có thể đi kèm với chứng co cơ, những mô kèm huyết được đẩy ra khỏi âm đạo, chứng đau lưng từ nhẹ cho tới dữ dội hoặc sụt cân bất ngờ là một vài dấu hiệu thông thường nhất báo động chị em có thể đối diện với nguy cơ bị sẩy thai. Vì thế, khi các thai phụ nhận thấy có một hoặc nhiều các triệu chứng trên, cần đến bệnh viện để kiểm tra càng sớm càng tốt.
Ăn thủy sản và bệnh tim mạch

“Ăn nhiều thủy sản sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch”, đó là khuyến cáo trong hướng dẫn tiêu dùng thủy sản vừa mới ban hành của Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA).

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), NOAA vừa ban hành Hướng dẫn ăn uống cho người Mỹ, trong đó khuyên người tiêu dùng cần ăn thủy sản nhiều gấp đôi hiện nay để giảm nguy cơ mắc bệnh tim.

Theo hướng dẫn tiêu dùng này, hiện lượng thủy sản mà người dân Mỹ đang tiêu thụ rất thấp, chỉ khoảng 85 g/tuần, do đó NOAA khuyến cáo người dân nên ăn ít nhất 226 g thủy sản/tuần, bởi những người ăn nhiều thủy sản sẽ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đột quỵ thấp hơn.

Theo các tài liệu khoa học, thủy sản là một loại thực phẩm kỳ diệu, chứa nhiều vi chất ding dưỡng, không chứa các chất béo có hại và cholesterol, đặc biệt là có acid béo omega-3 rất tốt cho việc giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Nhưng cũng có một số ý kiến cho rằng trong thuỷ sản có methyl thủy ngân có thể ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ người tiêu dùng.

Tuy nhiên, theo hướng dẫn này thì những lợi ích sức khỏe của việc ăn nhiều thủy sản cao hơn những rủi ro liên quan đến methyl thủy ngân.

Hướng dẫn cũng nêu rõ một số loài thủy sản có hàm lượng acid omega-3 cao và thủy ngân thấp như: cá hồi, cá cơm, cá trích, cá sacđin, hàu Thái Bình Dương, cá song Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cá bơn, cua, cá ngừ đóng hộp và cá da trơn (trong đó có cá basa Việt Nam).
Chế độ ăn giúp sống thọ

Theo tạp chí Reader’s Digest, cuộc khảo sát kéo dài 10 năm ở 545.000 tình nguyện viên người Mỹ cho thấy, đối với những ai ăn khoảng 115g thịt heo hoặc bò mỗi ngày, nguy cơ chết sớm cao hơn ít nhất 30% so với những người chỉ ăn khoảng 30g thịt heo hoặc bò mỗi ngày. Theo chuyên gia dinh dưỡng Paula Quatromoni thuộc Đại học Boston (Mỹ), kết quả trên không có nghĩa là loại thịt bò hoặc thịt heo khỏi thực đơn của mình mà là ăn càng ít càng tốt.

Những ai ăn cá và thịt gà nhiều thường giảm đáng kể nguy cơ tử vong sớm. Nếu muốn ăn thịt bò thì nên kèm theo nhiều rau củ với món ăn này. Nếu bạn lỡ ăn nhiều thịt đỏ thì cố gắng loại thịt đỏ ra khỏi thực đơn trong hai bữa ăn kế tiếp.

Ngoài ra, bạn có thể dùng nước sốt gồm dầu và giấm ăn. Nước sốt dầu giấm giúp chống ung thư, tiểu đường nhờ có tác dụng duy trì lượng đường trong máu. Nghiên cứu của các nhà khoa học tại Tây Ban Nha cho thấy, các hợp chất có trong dầu ôliu nguyên chất có thể ức chế sự tăng trưởng của khối u ung thư.
Uống sữa giúp tim khỏe

Các nhà khoa học thuộc Đại học Harvard (Mỹ) và Đại học Wageningen (Hà Lan) đã khẳng định điều này sau khi hồi cứu 17 cuộc khảo sát ở châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, về mối liên hệ giữa việc thường xuyên uống sữa có hàm lượng chất béo thấp với khả năng giảm nguy cơ mắc bệnh tim.

Cụ thể, những ai uống 3 ly sữa mỗi ngày giảm được 18% nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Ngoài ra, một cuộc khảo sát ở Israel được đăng trên chuyên san Dinh dưỡng Mỹ cho thấy, bổ sung hàm lượng lớn calci từ sữa mỗi ngày giúp giảm cân. Theo cuộc khảo sát được tiến hành ở hơn 300 người thừa cân trong 2 năm, những ai hấp thụ calci nhiều nhất giảm được 38% trọng lượng cơ thể so với những người ít bổ sung calci.
Sôcôla - Siêu thực phẩm chống ôxy hóa

Các nhà khoa học Mỹ vừa đưa ra tuyên bố rằng, sôcôla có lợi cho sức khỏe hơn nhiều loại trái cây.

Các nhà khoa đã tiến hành so sánh lượng chất chống ôxy hóa trong sôcôcla đen và cacao với nước ép từ các loại “siêu trái cây” như quả việt quất, nam việt quất và quả lựu.

Kết quả cho thấy, sôcôla đen có chứa khoảng 60% bột cacao và thức uống làm bằng sôcôla cũng rất giàu chất chống ôxy hóa flavanol hơn hoa quả. Trong đó, chất chống ôxy hóa flavanol có tác dụng làm trung hòa các phân tử phân hủy và cũng được cho là có khả năng chống lại bệnh tim và ung thư.

TS. Debra Miller, người đứng đầu cuộc nghiên cứu cho biết: “Bên cạnh việc rất giàu chất béo có lợi và protein, bột cacao và sôcôla đen là những loại siêu thực phẩm có hàm lượng chất chống ôxy hóa cao hơn những loại trái cây được cho là có hàm lượng dinh dưỡng cao nhất”.

Tuy nhiên, các loại sôcôla chế biến thường có hàm lượng chất béo và đường cao, vì thế, chúng ta không nên ăn quá nhiều để tránh mắc những bệnh liên quan tới béo phì. Trường hợp ăn nhiều sôcôla, bạn nên giảm ăn các loại thực phẩm giàu chất béo và protein, đồng thời tăng cường các loại thực phẩm như gạo nâu, trái cây và rau xanh.
Đổ mồ hôi liên quan với nguy cơ nhồi máu cơ tim

Nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ đăng trên tạp chí Thời kỳ mãn kinh ngày 24/2 cho thấy nữ giới có triệu chứng nóng bừng và đổ mồ hôi ban đêm ở giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh có thể có ít nguy cơ nhồi máu cơ tim về sau hơn.

Tuy nhiên, những phụ nữ phát triển các triệu chứng này muộn hơn trong thời kỳ mãn kinh có thể có các nguy cơ bệnh tim cao hơn.

Tiến sỹ JoAnn Manson thuộc Bệnh viện Brigham và Phụ nữ, tác giả của nghiên cứu trên cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi đưa ra đảm bảo rằng các triệu chứng điển hình của thời kỳ đầu mãn kinh, xảy ra ở phần lớn những nữ giới tuổi trung niên, không phải là tác nhân gây ra nguy cơ bệnh tim gia tăng hoặc đột quỵ trong tương lai.”

Phát hiện trên được rút ra từ bản phân tích mới về thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn mang tên Sáng kiến Sức khỏe của Phụ nữ trong năm 2002, cho thấy liệu pháp thay thế hormon đã làm tăng các bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng và đột quỵ ở những người phụ nữ lớn tuổi hơn.

Tiến sỹ Mason và các cộng sự đã phát hiện những phụ nữ có triệu chứng nóng bừng hoặc đổ mồ hôi ban đêm ở giai đoạn đầu thời kỳ mãn kinh thì ít có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim, đột quỵ hay tử vong hơn so với những người không có những triệu chứng này.

Hơn nữa, các nhà nghiên cứu này còn cho rằng đổ mồ hôi ban đêm và chứng nóng bừng đã giảm các nguy cơ này. Ví dụ, phụ nữ sớm bị nóng bừng và đổ mồ hôi đêm đã giảm 17% nguy cơ đột quỵ, 11% nguy cơ nhồi máu cơ tim và 11% nguy cơ tử vong trong quá trình họ thực hiện nghiên cứu vì bất cứ nguyên nhân nào.
Trong khi đó, nhóm nữ giới ở thời kỳ mãn kinh có các triệu chứng trên muộn hơn có nguy cơ bị nhồi máu cơ tim tăng 32% và nguy cơ tử vong tăng 29% so với những người có các triệu chứng trên sớm.
Chất tạo màu nước cola có gây ung thư?

Một số chất hóa học sử dụng để tạo màu trong các sản phẩm đồ uống giải khát cola có thể gây ra bệnh ung thư, một tổ chức bảo vệ người tiêu dùng ở Mỹ cảnh báo.

Màu nâu nhạt trong các sản phẩm đồ uống giải khát cola thường được làm từ đường nấu chảy hay chất hóa học amoniac (NH3). Tuy nhiên, các nhà khoa học thuộc Trung tâm Khoa học vì sức khỏe cộng đồng của Mỹ (CSPI) cảnh báo, chất tạo màu bằng amoniac có thể gây ra nhiều loại ung thư khác nhau.

Theo báo Telegraph, khuyến cáo được các nhà khoa học đưa ra sau khi tiến hành những thí nghiệm trên động vật. Nhóm nghiên cứu thuộc CSPI cũng kiến nghị Cơ quan quản lý dược phẩm và thực phẩm Mỹ (FDA) cấm các loại màu thực phẩm có chứa chất amoniac trong mọi sản phẩm đồ uống cola.

Nhóm nghiên cứu giải thích, chất NH3 sẽ phản ứng với đường trong các sản phẩm đồ uống cola, tạo thành các chất gây ung thư. Ngoài ra, họ cũng cảnh báo rằng nước uống cola làm tăng nguy cơ mắc bệnh béo phì.

Tuy nhiên, Hiệp hội Đồ uống Mỹ đã lên tiếng bác bỏ cảnh báo của các nhà khoa học thuộc CSPI với lí do chưa có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy chất tạo màu thực phẩm chứa NH3 gây ra bệnh ung thư trên người.

Trong khi đó, công ty Coca-Cola, nhà sản xuất đồ uống cola lớn nhất trên thế giới, quả quyết chất tạo màu sản phẩm của họ không hề chứa chất gây ung thư như cảnh báo của CSPI và cho rằng chất NH3 chỉ phản ứng tạo ra chất ung thư trong khi đun nấu. Hãng Pepsi cũng đưa ra những phản bác tương tự về cảnh báo của CSPI.
Mùi sữa mẹ quyết định khẩu vị của con

Muốn con không lười ăn rau xanh, các bà mẹ nên ăn nhiều rau trong thời gian cho trẻ bú sữa mẹ, theo một nghiên cứu mới được công bố của các nhà khoa học Mỹ.

Các nhà khoa học thuộc trung tâm nghiên cứu Monell (Mỹ) phát hiện, vị giác của trẻ em bắt đầu hình thành trong thời gian từ 2-5 tháng tuổi sau khi chào đời. Quá trình hình thành vị giác này chịu ảnh hưởng rất lớn từ chế độ ăn của người mẹ trong thời gian cho con bú. Những trẻ được bú sữa mẹ có vị đắng và chua sẽ có xu hướng thích ăn rau khi lớn lên.

Báo Telegraph dẫn lời tiến sĩ Gary Beauchamp, người đứng đầu cuộc nghiên cứu, cho biết trẻ có thể cảm nhận mùi vị của các loại thực phẩm mà người mẹ ăn thông quan bú sữa mẹ. Vì thế, trẻ thường có xu hướng thích ăn những thực phẩm mà người mẹ ăn trong thời kỳ cho con bú.

Một nghiên cứu khoa học mới đây cũng nhận thấy, chế độ ăn của người mẹ trong khi mang thai ảnh hưởng rất lớn tới vị giác của trẻ khi chào đời. Trẻ thường có xu hướng ăn những loại thực phẩm mà bà mẹ thường ăn trong khi mang thai.

Nghiên cứu trên vừa được tiến sĩ Gary Beauchamp công bố tại một hội nghị mới đây của Hiệp hội tiến bộ khoa học Mỹ tại Washington. Nghiên cứu này cũng đã được đăng trên tạp chí Clinical Nutrition của Mỹ.
Phát triển thuốc từ nọc độc của sên nón biển

Nọc độc của sên nón biển là dược liệu tuyệt vời để phát triển thuốc giảm đau thần kinh...

Giáo sư Baldomera Olivera thuộc đại học Utah đã tiến hành nghiên cứu những hợp chất hóa học có trong nọc độc của sên nón biển để phát triển thuốc Prialt - một loại thuốc giúp giảm đau kinh niên được FDA phê chuẩn vào năm 2004.

Có hơn 100.000 loài ốc sên đại dương, trong đó có khoảng 100 loài đã tiến hóa thành những kẻ săn mồi bằng nọc độc và chuyên săn cá. Những con sên biển Conus săn cá bằng những chiếc răng giống kim tiêm và tiết ra nọc độc gây tê liệt có chứa 100 thành phần hóa học.

Giáo sư Olivera cho biết, mục tiêu lâu dài của ông là nghiên cứu chất độc để tìm ra những phân tử then chốt tác động đến hệ thống thần kinh trung ương. Tuy nhiên hiện nay, cơ chế chính xác trong hoạt động sinh học của phần lớn các chuỗi axit amin hiện diện trong nọc độc của sên biển vẫn chưa được xác định.

Dạng tự nhiên của chất Prialt được tìm ra trong phòng thí nghiệm của Olivera vào năm 1979 bởi J.Michael McIntos. Ông hiện là giáo sư tâm thần học của ĐH Utah.

Được biết, Prialt được tiêm vào tủy sống để điều trị những chứng đau kinh niên ở những người bị ung thư, AIDS, chấn thương, thất bại trong phẫu thuật lưng và những chứng rối loại thần kinh nhất định.
Vitamin D ảnh hưởng đến phát triển phổi

Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Telethon ở Perth (Úc) phát hiện ra rằng, thiếu vitamin D có thể gây suy giảm chức năng phổi và những thay đổi trong quá trình phát triển của phổi. Để có được kết luận này, theo đài ABC News (Úc), các nhà khoa học đã so sánh chuột 2 tuần tuổi bị thiếu vitamin D với những con chuột bình thường.

Kết quả cho thấy, những con chuột bị thiếu vitamin D có lá phổi yếu hơn và sự khác biệt này là đáng kể. Tiến sĩ Graeme Zosky - trưởng nhóm nghiên cứu - nhấn mạnh: “Phát hiện này là một bước đi đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng tôi cần nghiên cứu thêm để cân nhắc liệu việc cung cấp các chất bổ sung vitamin D cho thai phụ hoặc trẻ sơ sinh đang có nguy cơ mắc bệnh phổi cao có thể xem như một chiến lược phòng ngừa hay không”.
Phụ nữ ăn chay trường có thể dẫn đến vô sinh

Những năm gần đây, ăn chay đã trở thành xu hướng mới trong cuộc sống của chúng ta.

Đặc biệt là đối với những phụ nữ có thân hình mập mạp một chút thì dường như việc ăn chay đã trở thành thói quen. Những cô gái này hy vọng ăn nhiều các loại rau, củ, quả sẽ giúp họ thon gọn hơn.

Không thể phủ nhận rằng rau quả và những loại thực phẩm nhiều chất xơ sẽ rất có hiệu quả trong việc giảm cân.Tuy nhiên nếu thường xuyên ăn chay, cơ thể sẽ thiếu vitamin B12 và các nguyên tố vi lượng như calci, sắt.

Các chuyên gia về y học đã nghiên cứu và chứng minh rằng nếu phụ nữ thường xuyên ăn chay sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc tiết hormon trong cơ thể, thậm chí có thể dẫn đến vô sinh.

Những phụ nữ đã qua tuổi 30, khả năng sinh nở cũng theo tuổi tác mà giảm dần vì vậy nếu ai còn muốn sinh con thì nên thận trọng trong việc điều chỉnh chế độ ăn chay.
Vũ khí mới chống sốt rét

Các nhà nghiên cứu Mỹ cho biết họ đã phát hiện một loại tảo biển ở Fiji sản sinh chất tiêu diệt ký sinh trùng sốt rét.

Theo các chuyên gia thuộc Viện Công nghệ Georgia, tảo đỏ Callophycus serratus sinh ra một hợp chất kháng nấm tự nhiên có khả năng chống ký sinh trùng sốt rét, vốn đã tỏ ra nhờn với nhiều loại thuốc trị bệnh sốt rét hiện hữu.

Thuốc trị sốt rét gần đây nhất là artemisin đang bị “thách thức” bởi một dòng ký sinh trùng sốt rét ở Campuchia.

Tại Fiji, chuyên gia hóa học sinh thái Julia Kubanek thuộc viện trên đã sưu tầm các loại tảo biển và nhiều loại sinh vật biển khác, sàng lọc các hợp chất được cô lập từ những sinh vật này để tìm các chất kháng sinh tự nhiên cùng những thuộc tính y sinh có khả năng chống ung thư, AIDS và các loại bệnh hiểm nghèo khác.

Chuyên gia Kubanek phát hiện tảo Callophycus serratus sản sinh một loạt hợp chất gọi chung là bromophycolide có các thuộc tính kháng sốt rét mạnh.

Nếu hợp chất tảo Callophycus serratus được chứng minh thực sự hiệu quả trong các nghiên cứu trên động vật và người, nó có thể trở thành vũ khí hiệu quả tiêu diệt căn bệnh cướp đi sinh mạng của hàng triệu người mỗi năm.
Nghệ có thể giúp tái tạo não sau đột quỵ

Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Y học Cedars-Sinai (Mỹ) cho biết, một loại thuốc mới được làm từ cây nghệ có thể giúp tái sản sinh các tế bào não sau đột quỵ.

BBC dẫn lời chuyên gia Paul Lapchak - trưởng nhóm nghiên cứu - cho biết: Đó là nhờ hợp chất phân tử CNB-001, được làm từ curcumin - chất màu vàng tự nhiên có trong cây nghệ.

Theo nhà khoa học Lapchak, những con thỏ được cho dùng loại thuốc này trong khoảng thời gian tương đương với 3 giờ đồng hồ ở người, đã giảm đột quỵ. Thuốc mới này dễ dàng làm tan biến những cục máu vón và phục hồi dòng máu chảy lên não ở bệnh nhân đột quỵ, từ đó giúp giảm các rắc rối có thể xảy ra đối với cơ bắp và khả năng cử động chân tay.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...