Sự lôi cuốn của tính đối xứng
Cảm nhận sự hiểu biết còn hấp dẫn hơn chính sự hiểu biết. Và không có gì ngạc nhiên khi óc tưởng tượng của con người đã tạo cho trái đất những hình thể đối xứng đơn giản nhất.
Một trong những hình thể hấp dẫn của trái đất là hình quả trứng. Người Ai Cập cổ xưa coi toàn thể trái đất như một quả trứng ban đêm được giữ gìn bởi mặt trăng, “một con chim trắng khổng lồ... giống như một con ngỗng đang ấp trứng”. Các nhà Ngộ Đạo, một giáo phái thần bí Kitô giáo ở thế kỷ 1 và 2, cũng coi trời và đất như một Quả Trứng Thế Giới trong lòng của vũ trụ. Quấn lấy quả trứng này là một con rắn khổng lồ sưởi ấm cho quả trứng, giữ gìn trứng, ấp trứng và đôi khi ăn quả trứng đó. Thánh Bede Đáng Kính đã viết vào thế kỷ 7: “Trái đất là một vật thể nằm giữa lòng của vũ trụ, giống như lòng đỏ trứng nằm giữa quả trứng; chung quanh nó là nước, giống như lòng trắng trứng bao quanh lòng đỏ; bên ngoài nước là không khí, giống như màng của quả trứng; và ở ngoài cùng là lửa, bao bọc lấy nó như chiếc vỏ trứng”.
Một ngàn năm sau, nhà thần học người Anh Thomas Burnet (1635?-1715) đã kết hợp tư tưởng thần học Plato, khoa học và kinh nghiệm du lịch dãy núi Alpes để viết thành cuốn sách danh tiếng Thần Học và Trái Đất (1684). Nhưng ông phải nhìn nhận rằng “quan niệm này về trái đất hình quả trứng đã có từ thời cổ đại ở các dân tộc Latinh, Hy Lạp, Ba Tư, Ai Cập và những dân tộc khác nữa”. “Thần học” của Burnet mô tả việc sáng tạo và tái tạo mặt đất thành 4 thời kỳ: Sáng tạo, Hồng Thủy, Hỏa Tai và Tận Thế. Trong thời kỳ hiện tại, sau thời kỳ Hồng Thủy và chuẩn bị cho thời Hỏa Tai, mặt trời làm khô trái đất và những thay đổi bên trong trái đất đang chuẩn bị cho tất cả trái đất bốc cháy. Sau thời Hỏa Tai là một ngàn năm với một trời mới và một đất mới; và sau ngàn năm này, khi trái đất được biến đổi thành một ngôi sao sáng, mọi lời tiên tri của kinh thánh sẽ được ứng nghiệm.
Chúng ta không còn bản đồ nào của người Hy Lạp cổ đại, nhưng kho văn học Hy Lạp có mô tả cuộc tìm kiếm cái đối xứng. Từ lâu trước khi bắt đầu tin rằng trái đất hình cầu, người Hy Lạp đã tranh luận về những hình thù đơn giản khác mà trái đất có thể có. Herodotus chế giễu quan niệm của Homer về trái đất là một cái đĩa tròn được sông Oceanus bao quanh. Theo ông, rõ ràng chung quanh trái đất phải toàn là sa mạc. Ngay từ trước khi người ta biết trái đất hình cầu, người ta đã tin rằng có một thứ “xích đạo” chia trái đất thành hai phần đều nhau. Theo Herodotus, sông Nil và sông Danube nằm đối xứng nhau qua một kinh tuyến chạy xuyên qua những bản đồ Hy Lạp. Một hình thang cân là hình ảnh về trái đất được chấp nhận bởi Aechylus, sử gia Ephorus và các tác giả Hy Lạp khác. “Đường xích đạo” này đi theo trục kinh tuyến của biển Địa Trung Hải trên các bản đồ Hy Lạp, có vẻ giúp cắt nghĩa nhiều điều. Nó giải thích rằng vùng Tiểu á có khí hậu lý tưởng vì nó nằm dọc theo trục đó và ở giữa hai điểm cực của mặt trời mọc và lặn vào mùa hè và mùa đông.
Trái đất hình vuông cũng lôi cuốn rất nhiều người. Những người Pêru cổ xưa hình dung trái đất như một cái hộp với một màn hình gợn sóng, nơi ở của Thần Vĩ Đại. Người Aztecs chia vũ trụ của họ thành năm hình vuông- có một hình vuông ở giữa và kéo ra mỗi mặt một hình vuông. Mỗi hình vuông chứa một trong bốn phương đi ra từ Chỗ Trung Tâm, nơi ở của Thần lửa Xiuhtecutli, mẹ và cha của các thần, ở trong rốn của trái đất. Các dân tộc khác coi vũ trụ có hình bánh xe, hay một khối tứ diện.
Những chuyện thần thoại và ẩn dụ khắp nơi đã giúp làm cho vũ trụ trở nên dễ hiểu, đẹp và hợp lý. Người ta đã tưởng tượng ra đủ loại nhân vật kỳ diệu có vai trò Nâng Đỡ Vũ Trụ. Thần thoại Hy Lạp có Atlas vác quả đất trên vai, là hình ảnh quen thuộc đối với người châu Âu. Ở Mexicô, có ít nhất bốn vị thần nâng đỡ bầu trời, trong đó nổi nhất là thần Quetzalcoatl. Một hình ảnh của Ấn giáo cổ xưa cho thấy quả đất hình bán cầu được đỡ trên lưng của bốn con voi đứng trên mu hình bán cầu của một con rùa khổng lồ nổi trên đại dương của vũ trụ.
Từ rất sớm, khoảng thế kỷ 5 trước C.N., các học giả Hy Lạp đã biết trái đất có hình cầu. Bằng chứng chắc chắn đầu tiên được ghi lại trong cuốn Phaedo của Plato. Các triết gia Hy Lạp nghiêm túc đã bỏ quan niệm trái đất như là một cái đĩa phẳng nổi trên mặt nước. Trường phái Pythagora và Plato đặt niềm tin của họ trên cơ sở mỹ học. Vì hình cầu là hình toán học hoàn hảo nhất, nên tất nhiên trái đất phải hình cầu. Suy nghĩ theo cách khác sẽ là chối bỏ trật tự trong Tạo dựng. Aristote cũng chấp nhận lý thuyết này dựa trên những lý do toán học thuần túy và ông còn thêm một số dẫn chứng về vật lý. Ở trung tâm của vũ trụ, tất nhiên là trái đất phải là hình cầu. Vì mọi vật thể rơi đều hướng về tâm, nên những hạt của trái đất sẽ hợp thành một quả cầu khi chúng tụ lại từ các phía. “Hơn nữa, tính chất hình cầu của trái đất còn được chứng minh bởi kinh nghiệm của cảm giác, vì nếu không, nguyệt thực sẽ không có hình dạng như thế; vì tuy trong những chu kỳ hàng tháng của mặt trăng các mảnh mang những hình thù đủ loại- thẳng, khuyết, lưỡi liềm- nhưng trong nguyệt thực là do mặt trăng bị trái đất che khuất, thì đường tròn đó chính là do hình cầu của trái đất”.
Vào sinh thời của Aristote, khoa địa lý toán học ở Hy Lạp đã có những tiến bộ rất lớn. Tuy họ vẫn chưa quan sát đủ những chi tiết về mặt đất để vẽ một bản đồ trái đất hữu dụng, nhưng chỉ dùng toán học và thiên văn học, họ đã đạt đến những con số tính toán chính xác đến kinh ngạc. Các tác giả cổ điển sau Aristote, không những chỉ có các nhà khoa học-triết học lớn như Pliny Lớn (23-79) và Ptolêmê (90-168), còn có những nhà bách khoa nổi tiếng chấp nhận và khai triển tính chất hình cầu của trái đất. Khám phá này là một trong những di sản quan trọng nhất của kiến thức cổ điển để lại cho thế giới hiện đại.
Trái đất hình tròn gợi ra những cơ hội mà trí tưởng tượng thẩm mỹ không thể nào cưỡng lại được. Một hình cầu có thể được chia nhỏ ra một cách đối xứng, thậm chí đẹp nữa, theo rất nhiều cách. Các nhà triết học-địa lý học thời cổ đã rất sớm khám phá ra điều này.
Những cố gắng đầu tiên là muốn vẽ chung quanh quả cầu những đường song song đối xứng. Nếu có thể vẽ đều được những đường song song này, phải chăng những khoảng cách giữa chúng không có một ý nghĩa đặc biệt? Thế là người Hy Lạp vẽ những đường này quanh khắp quả cầu, chia trái đất thành những phần nhỏ song song nhau, mà họ gọi là klimata. Những klimata này có ý nghĩa địa lý và thiên văn học, chứ không có ý nghĩa về thời tiết. Chiều dài của ngày dài nhất xấp xỉ bằng nhau tại mọi nơi trong cùng một vùng. Klimata theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “sự nghiêng” vì chiều dài của một ngày luôn luôn được xác định bởi độ nghiêng của mặt trời khi nó được nhìn thấy ở mỗi nơi. Trong vùng gần cực, ngày dài nhất trong năm là 20 giờ, trong khi gần xích đạo ánh sáng ban ngày không bao giờ kéo dài quá 12 giờ đồng hồ. Giữa hai điểm đó là những vùng mà ngày dài nhất sẽ có những lượng gia khác nhau.
Các học giả thời xưa không nhất trí trong việc chia quả đất thành bao nhiêu vùng như thế. Một số nghĩ chỉ có ba, số khác nghĩ có thể mười hay nhiều hơn. Sự đối xứng của những sự phân chia này bị rắc rối vì vùng mà ngày kéo dài từ 14 đến 15 giờ sẽ rộng 632 dặm, trong khi vùng mà ngày kéo dài từ 19 đến 20 giờ sẽ chỉ rộng 173 dặm. Sơ đồ nổi tiếng nhất là của Pliny, phân chia phần của mặt đất được người Hy Lạp và Rôma biết đến thời đó (nghĩa là phần đất ở 46 vĩ bắc) thành 7 múi song song hoàn toàn ở phía bắc xích đạo. Ông cũng vẽ thêm ba vùng nữa cho các “hoang mạc” ở phía cực bắc. Ptolêmê tăng con số lên 21 múi song song cho toàn thể bắc bán cầu.
Những đường tùy ý đó dần dần sẽ có tầm quan trọng lớn trong việc con người hiểu biết bề mặt của hành tinh, nhưng không phải các học giả thời cổ đại mong đợi. Nhà địa lý nổi tiếng Strabo (64 trước C.N.?) nhấn mạnh rằng phần klimata nhiệt đới ở cả hai phía xích đạo, chỗ mà mặt trời đứng ở trên đỉnh đầu suốt nửa tháng mỗi năm, có một hệ thực vật và động vật đặc biệt. Ở vùng này, mặt đất toàn cát nứt nẻ “không tạo ra được loài gì ngoài cây dầu thông, loại cây dầu thông nhỏ tạo ra nhựa thông và một số cây mang trái có vị cay dễ bị sức nóng làm khô héo; vì ở những vùng này không có những núi để làm tan mây và tạo mưa, cũng không có sông ngòi; và vì vậy các vùng này chỉ có những loài động vật có lông tơ, sừng cụt, môi dề và mũi tẹt (vì các phần đầu của những bộ phận này bị sức nóng làm què cụt)”. Nước da đen sạm của người Ethiopi được coi là sức nóng cháy bỏng của vùng nhiệt đới, còn màu hung đỏ và tính hoang dã của những cư dân các vùng cực bắc là do cái lạnh của khu vực Bắc cực.
Từ cuộc tìm kiếm các khu vực klimata và sự đối xứng đã phát sinh Hệ Thống Trái Đất của Ptolêmê. Tuy không được biết nhiều bằng Hệ Thống Hành Tinh, mà ai cũng biết là sai lầm, Hệ Thống Trái Đất của Ptolêmê vẫn còn cung cấp cho chúng ta vị trí và phương hướng của mình trên mặt đất.
Herodotus và những học giả Hy Lạp thời xưa khi đi tìm những đường đối xứng, đã vẽ một đường từ đông sang tây qua Địa Trung Hải, chia thế giới mà họ biết vào thời đó thành hai phần. Dụng cụ đơn giản này mà họ khai triển để phù hợp với hình cầu mà họ mới khám phá ra đối với trái đất, là một khởi điểm quyết định.
Một trong những hình thể hấp dẫn của trái đất là hình quả trứng. Người Ai Cập cổ xưa coi toàn thể trái đất như một quả trứng ban đêm được giữ gìn bởi mặt trăng, “một con chim trắng khổng lồ... giống như một con ngỗng đang ấp trứng”. Các nhà Ngộ Đạo, một giáo phái thần bí Kitô giáo ở thế kỷ 1 và 2, cũng coi trời và đất như một Quả Trứng Thế Giới trong lòng của vũ trụ. Quấn lấy quả trứng này là một con rắn khổng lồ sưởi ấm cho quả trứng, giữ gìn trứng, ấp trứng và đôi khi ăn quả trứng đó. Thánh Bede Đáng Kính đã viết vào thế kỷ 7: “Trái đất là một vật thể nằm giữa lòng của vũ trụ, giống như lòng đỏ trứng nằm giữa quả trứng; chung quanh nó là nước, giống như lòng trắng trứng bao quanh lòng đỏ; bên ngoài nước là không khí, giống như màng của quả trứng; và ở ngoài cùng là lửa, bao bọc lấy nó như chiếc vỏ trứng”.
Một ngàn năm sau, nhà thần học người Anh Thomas Burnet (1635?-1715) đã kết hợp tư tưởng thần học Plato, khoa học và kinh nghiệm du lịch dãy núi Alpes để viết thành cuốn sách danh tiếng Thần Học và Trái Đất (1684). Nhưng ông phải nhìn nhận rằng “quan niệm này về trái đất hình quả trứng đã có từ thời cổ đại ở các dân tộc Latinh, Hy Lạp, Ba Tư, Ai Cập và những dân tộc khác nữa”. “Thần học” của Burnet mô tả việc sáng tạo và tái tạo mặt đất thành 4 thời kỳ: Sáng tạo, Hồng Thủy, Hỏa Tai và Tận Thế. Trong thời kỳ hiện tại, sau thời kỳ Hồng Thủy và chuẩn bị cho thời Hỏa Tai, mặt trời làm khô trái đất và những thay đổi bên trong trái đất đang chuẩn bị cho tất cả trái đất bốc cháy. Sau thời Hỏa Tai là một ngàn năm với một trời mới và một đất mới; và sau ngàn năm này, khi trái đất được biến đổi thành một ngôi sao sáng, mọi lời tiên tri của kinh thánh sẽ được ứng nghiệm.
Chúng ta không còn bản đồ nào của người Hy Lạp cổ đại, nhưng kho văn học Hy Lạp có mô tả cuộc tìm kiếm cái đối xứng. Từ lâu trước khi bắt đầu tin rằng trái đất hình cầu, người Hy Lạp đã tranh luận về những hình thù đơn giản khác mà trái đất có thể có. Herodotus chế giễu quan niệm của Homer về trái đất là một cái đĩa tròn được sông Oceanus bao quanh. Theo ông, rõ ràng chung quanh trái đất phải toàn là sa mạc. Ngay từ trước khi người ta biết trái đất hình cầu, người ta đã tin rằng có một thứ “xích đạo” chia trái đất thành hai phần đều nhau. Theo Herodotus, sông Nil và sông Danube nằm đối xứng nhau qua một kinh tuyến chạy xuyên qua những bản đồ Hy Lạp. Một hình thang cân là hình ảnh về trái đất được chấp nhận bởi Aechylus, sử gia Ephorus và các tác giả Hy Lạp khác. “Đường xích đạo” này đi theo trục kinh tuyến của biển Địa Trung Hải trên các bản đồ Hy Lạp, có vẻ giúp cắt nghĩa nhiều điều. Nó giải thích rằng vùng Tiểu á có khí hậu lý tưởng vì nó nằm dọc theo trục đó và ở giữa hai điểm cực của mặt trời mọc và lặn vào mùa hè và mùa đông.
Trái đất hình vuông cũng lôi cuốn rất nhiều người. Những người Pêru cổ xưa hình dung trái đất như một cái hộp với một màn hình gợn sóng, nơi ở của Thần Vĩ Đại. Người Aztecs chia vũ trụ của họ thành năm hình vuông- có một hình vuông ở giữa và kéo ra mỗi mặt một hình vuông. Mỗi hình vuông chứa một trong bốn phương đi ra từ Chỗ Trung Tâm, nơi ở của Thần lửa Xiuhtecutli, mẹ và cha của các thần, ở trong rốn của trái đất. Các dân tộc khác coi vũ trụ có hình bánh xe, hay một khối tứ diện.
Những chuyện thần thoại và ẩn dụ khắp nơi đã giúp làm cho vũ trụ trở nên dễ hiểu, đẹp và hợp lý. Người ta đã tưởng tượng ra đủ loại nhân vật kỳ diệu có vai trò Nâng Đỡ Vũ Trụ. Thần thoại Hy Lạp có Atlas vác quả đất trên vai, là hình ảnh quen thuộc đối với người châu Âu. Ở Mexicô, có ít nhất bốn vị thần nâng đỡ bầu trời, trong đó nổi nhất là thần Quetzalcoatl. Một hình ảnh của Ấn giáo cổ xưa cho thấy quả đất hình bán cầu được đỡ trên lưng của bốn con voi đứng trên mu hình bán cầu của một con rùa khổng lồ nổi trên đại dương của vũ trụ.
Từ rất sớm, khoảng thế kỷ 5 trước C.N., các học giả Hy Lạp đã biết trái đất có hình cầu. Bằng chứng chắc chắn đầu tiên được ghi lại trong cuốn Phaedo của Plato. Các triết gia Hy Lạp nghiêm túc đã bỏ quan niệm trái đất như là một cái đĩa phẳng nổi trên mặt nước. Trường phái Pythagora và Plato đặt niềm tin của họ trên cơ sở mỹ học. Vì hình cầu là hình toán học hoàn hảo nhất, nên tất nhiên trái đất phải hình cầu. Suy nghĩ theo cách khác sẽ là chối bỏ trật tự trong Tạo dựng. Aristote cũng chấp nhận lý thuyết này dựa trên những lý do toán học thuần túy và ông còn thêm một số dẫn chứng về vật lý. Ở trung tâm của vũ trụ, tất nhiên là trái đất phải là hình cầu. Vì mọi vật thể rơi đều hướng về tâm, nên những hạt của trái đất sẽ hợp thành một quả cầu khi chúng tụ lại từ các phía. “Hơn nữa, tính chất hình cầu của trái đất còn được chứng minh bởi kinh nghiệm của cảm giác, vì nếu không, nguyệt thực sẽ không có hình dạng như thế; vì tuy trong những chu kỳ hàng tháng của mặt trăng các mảnh mang những hình thù đủ loại- thẳng, khuyết, lưỡi liềm- nhưng trong nguyệt thực là do mặt trăng bị trái đất che khuất, thì đường tròn đó chính là do hình cầu của trái đất”.
Vào sinh thời của Aristote, khoa địa lý toán học ở Hy Lạp đã có những tiến bộ rất lớn. Tuy họ vẫn chưa quan sát đủ những chi tiết về mặt đất để vẽ một bản đồ trái đất hữu dụng, nhưng chỉ dùng toán học và thiên văn học, họ đã đạt đến những con số tính toán chính xác đến kinh ngạc. Các tác giả cổ điển sau Aristote, không những chỉ có các nhà khoa học-triết học lớn như Pliny Lớn (23-79) và Ptolêmê (90-168), còn có những nhà bách khoa nổi tiếng chấp nhận và khai triển tính chất hình cầu của trái đất. Khám phá này là một trong những di sản quan trọng nhất của kiến thức cổ điển để lại cho thế giới hiện đại.
Trái đất hình tròn gợi ra những cơ hội mà trí tưởng tượng thẩm mỹ không thể nào cưỡng lại được. Một hình cầu có thể được chia nhỏ ra một cách đối xứng, thậm chí đẹp nữa, theo rất nhiều cách. Các nhà triết học-địa lý học thời cổ đã rất sớm khám phá ra điều này.
Những cố gắng đầu tiên là muốn vẽ chung quanh quả cầu những đường song song đối xứng. Nếu có thể vẽ đều được những đường song song này, phải chăng những khoảng cách giữa chúng không có một ý nghĩa đặc biệt? Thế là người Hy Lạp vẽ những đường này quanh khắp quả cầu, chia trái đất thành những phần nhỏ song song nhau, mà họ gọi là klimata. Những klimata này có ý nghĩa địa lý và thiên văn học, chứ không có ý nghĩa về thời tiết. Chiều dài của ngày dài nhất xấp xỉ bằng nhau tại mọi nơi trong cùng một vùng. Klimata theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “sự nghiêng” vì chiều dài của một ngày luôn luôn được xác định bởi độ nghiêng của mặt trời khi nó được nhìn thấy ở mỗi nơi. Trong vùng gần cực, ngày dài nhất trong năm là 20 giờ, trong khi gần xích đạo ánh sáng ban ngày không bao giờ kéo dài quá 12 giờ đồng hồ. Giữa hai điểm đó là những vùng mà ngày dài nhất sẽ có những lượng gia khác nhau.
Các học giả thời xưa không nhất trí trong việc chia quả đất thành bao nhiêu vùng như thế. Một số nghĩ chỉ có ba, số khác nghĩ có thể mười hay nhiều hơn. Sự đối xứng của những sự phân chia này bị rắc rối vì vùng mà ngày kéo dài từ 14 đến 15 giờ sẽ rộng 632 dặm, trong khi vùng mà ngày kéo dài từ 19 đến 20 giờ sẽ chỉ rộng 173 dặm. Sơ đồ nổi tiếng nhất là của Pliny, phân chia phần của mặt đất được người Hy Lạp và Rôma biết đến thời đó (nghĩa là phần đất ở 46 vĩ bắc) thành 7 múi song song hoàn toàn ở phía bắc xích đạo. Ông cũng vẽ thêm ba vùng nữa cho các “hoang mạc” ở phía cực bắc. Ptolêmê tăng con số lên 21 múi song song cho toàn thể bắc bán cầu.
Những đường tùy ý đó dần dần sẽ có tầm quan trọng lớn trong việc con người hiểu biết bề mặt của hành tinh, nhưng không phải các học giả thời cổ đại mong đợi. Nhà địa lý nổi tiếng Strabo (64 trước C.N.?) nhấn mạnh rằng phần klimata nhiệt đới ở cả hai phía xích đạo, chỗ mà mặt trời đứng ở trên đỉnh đầu suốt nửa tháng mỗi năm, có một hệ thực vật và động vật đặc biệt. Ở vùng này, mặt đất toàn cát nứt nẻ “không tạo ra được loài gì ngoài cây dầu thông, loại cây dầu thông nhỏ tạo ra nhựa thông và một số cây mang trái có vị cay dễ bị sức nóng làm khô héo; vì ở những vùng này không có những núi để làm tan mây và tạo mưa, cũng không có sông ngòi; và vì vậy các vùng này chỉ có những loài động vật có lông tơ, sừng cụt, môi dề và mũi tẹt (vì các phần đầu của những bộ phận này bị sức nóng làm què cụt)”. Nước da đen sạm của người Ethiopi được coi là sức nóng cháy bỏng của vùng nhiệt đới, còn màu hung đỏ và tính hoang dã của những cư dân các vùng cực bắc là do cái lạnh của khu vực Bắc cực.
Từ cuộc tìm kiếm các khu vực klimata và sự đối xứng đã phát sinh Hệ Thống Trái Đất của Ptolêmê. Tuy không được biết nhiều bằng Hệ Thống Hành Tinh, mà ai cũng biết là sai lầm, Hệ Thống Trái Đất của Ptolêmê vẫn còn cung cấp cho chúng ta vị trí và phương hướng của mình trên mặt đất.
Herodotus và những học giả Hy Lạp thời xưa khi đi tìm những đường đối xứng, đã vẽ một đường từ đông sang tây qua Địa Trung Hải, chia thế giới mà họ biết vào thời đó thành hai phần. Dụng cụ đơn giản này mà họ khai triển để phù hợp với hình cầu mà họ mới khám phá ra đối với trái đất, là một khởi điểm quyết định.
Eratosthenes (276?-195 trước C.N.?) có lẽ là nhà địa lý học lớn nhất thời cổ mà chúng ta biết đến phần lớn qua truyền thuyết. Julius Caesar có lẽ đã dựa trên cuốn Địa lý của ông. Ở Alexandria, ông là người thủ thư thứ hai của thư viện lớn nhất phương Tây vào thời đó. “Là nhà toán học trong giới các nhà địa lý”, ông đã khai triển một kỹ thuật để đo chu vi của trái đất nay vẫn còn được sử dụng.
Qua các lữ khách, Eratosthenes nghe nói rằng vào giữa trưa ngày 21 tháng 6, mặt trời không đổ bóng trong một cái giếng ở Syene (nay là Aswan), nghĩa là mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu. Ông biết rằng mặt trời luôn đổ bóng tại Alexandria. Từ những kiến thức có sẵn vào thời đó, ông suy ra rằng Syene phải ở phía nam Alexandria. Ông nảy ra ý tưởng là nếu có thể đo được chiều dài của bóng mặt trời ở Alexandria vào lúc mà ở Syene không có bóng mặt trời, thì ông có thể tính được chu vi của trái đất. Ngày 21 tháng 6 ông đo bóng của một cột kỷ niệm tại Alexandria và bằng cách tính đơn giản của hình học ông tính được mặt trời ở 7014’ cách đỉnh đầu. Độ nghiêng này bằng 1 phần 50 của một vòng trong 3600. Tính toán này chính xác một cách lạ lùng, vì độ khác biệt thực sự giữa vĩ độ của Aswan và Alexandria, theo những tính toán hoàn hảo nhất của chúng ta ngày nay, là 7014’. Như thế chu vi của trái đất bằng 50 lần khoảng cách từ Syene tới Alexandria. Nhưng khoảng cách này là bao nhiêu? Qua lữ khách, ông biết rằng những con lạc đà phải mất 50 ngày để đi hết quãng hành trình này và lạc đà mỗi ngày đi được 100 stadium. Như thế khoảng cách từ Syene tới Alexandria là 5,000 stadium (50x100). Từ đó ông tính được chu vi của trái đất là 250,000 stadium (50x5000). Một stadium của Hy Lạp tương đương 607 feet Anh. Theo cách tính toán này, Eratosthenes đã đạt đến một con số cho chu vi của trái đất là khoảng 28,700 dặm, cao hơn con số thật chúng ta biết ngày nay khoảng 15 phần trăm.
Việc đo các góc của ông chính xác hơn việc đo khoảng cách và điều này không đáng ngạc nhiên. Trong lịch sử đo đạc, góc luôn luôn được đo chính xác hơn khoảng cách rất nhiều. Sự chính xác về tính toán chu vi trái đất của Eratosthenes không ai vượt qua được cho tới thời cận đại. Sự kết hợp hiệu quả giữa lý thuyết thiên văn và toán học với kinh nghiệm hằng ngày của ông đã cống hiến chúng ta một mẫu mực mà sau ông người ta đã lãng quên suốt thời gian quá dài.
Nhưng kỹ thuật của ông để đo đạc bề mặt trái đất còn quan trọng hơn những số liệu tính toán của ông rất nhiều. Chúng ta biết điều này nhờ những bài đả kích Eratosthenes do Hipparchus ở Nicea (khoảng 165-127 trước Công nguyên), người được coi là nhà thiên văn lớn nhất của Hy Lạp. Hipparchus là người đã khám phá ra tiến động của các điểm phân, liệt kê ra 1,000 ngôi sao và chung chung người ta nhìn nhận ông là người phát minh ra toán lượng giác. Nhưng Hipparchus có một mối tị hiềm rất mạnh đối với Eratosthenes, người đã chết 30 năm trước khi Hipparchus sinh ra. Eratosthenes đã chia trái đất bằng những đường song song đông-tây và bắc-nam. Ông chia thế giới ở được thành Miền Bắc và Miền Nam bằng một đường đông-tây song song với xích đạo, chạy qua đảo Rhodes và chia đôi biển Địa Trung Hải. Rồi ông thêm một đường thẳng góc bắc-nam, chạy qua Alexandria. Trên bản đồ của Eratosthennes, các đường khác-đông-tây và bắc-nam-không được vẽ cách đều nhau. Ngược lại, ông đã vẽ những đường này qua các điểm nổi tiếng và quen thuộc thời đó-Alexandria, Rhodes, Meroe, Pillars của Hercules, Sicily, sông Euphrate, cửa Vịnh Ba Tư, cửa sông Indus, mũi bán đảo ấn Độ. Kết quả là một mạng lưới không đều đặn trên mặt hình cầu của trái đất.
Hipparhus đã đi bước tiếp theo. Tại sao không vẽ những đường tròn kín quanh địa cầu, tất cả song song với đường xích đạo và cách đều từ xích đạo tới hai cực? Rồi sau đó cũng vẽ những đường khác thẳng góc với những đường song song và cách đều quĩ đạo này. Kết quả sẽ có một mạng lưới đều đặn bao phủ toàn mặt hành tinh. Các đường này không chỉ mô tả các vùng trên mặt đất nhận được ánh mặt trời ở những góc giống nhau. Nếu đánh số cho những đường ấy, chúng có thể cho ta một tập hợp các tọa độ để định vị trí của mọi nơi trên trái đất. Lúc đó thật dễ biết bao để nói cho bất cứ ai biết chỗ của bất cứ thành phố, con sông, hay ngọn núi nào trên hành tinh này!
Eratosthenes đã hình dung ra một cách mơ hồ những khả năng của một bản đồ như thế. Nhưng vào thời kỳ của ông, hầu hết những chỗ mà người ta cần tìm trên bản đồ đều chỉ được xác định bởi những câu chuyện của các lữ khách và bởi truyền thống. Ông biết là chưa đủ, nhưng ông không có đủ những điểm mốc đủ chính xác để vẽ bản đồ của mình. Hipparchus tiếp tục công việc đó bằng cách nhấn mạnh rằng mỗi điểm phải được xác định bằng việc quan sát thiên văn chính xác để có một bản đồ toàn cầu gồm các vĩ tuyến và kinh tuyến. Ông không chỉ có ý tưởng đúng mà còn thấy làm cách nào có thể đưa ý tưởng của mình vào một bản đồ chính xác và thực dụng. Bằng cách sử dụng những hiện tượng thiên văn chung của toàn thể trái đất để định vị trí các nơi trên mặt đất, ông đã thiết lập khuôn mẫu cho việc vẽ bản đồ của hành tinh này.
Tiện thể, Hipparchus đã sáng tạo ra từ vựng toán học vẫn còn được sử dụng ngày nay. Eratosthenes đã chia mặt đất thành 60 phần, nhưng Hipparchus lại chia nó thành 360 phần để trở thành những “độ” cho các nhà địa lý thời đại mới. Ông đặt những đường kinh tuyến của mình trên xích đạo ở những khoảng cách nhau 70 dặm, xấp xỉ kích thước của một “độ”. Bằng cách phối hợp những đường klimata trước kia với những đường kinh tuyến này, ông đã cho ra những khái niệm về một bản đồ thế giới dựa trên những quan sát thiên văn về vĩ tuyến và kinh tuyến.
Vĩ tuyến và kinh tuyến có tầm quan trọng trong việc đo đạc không gian giống như đồng hồ có tầm quan trọng trong việc đo đạc thời gian. Chúng báo hiệu việc con người làm chủ thiên nhiên, khám phá và đánh dấu những kích thước của kinh nghiệm.
Vĩ tuyến và kinh tuyến có tầm quan trọng trong việc đo đạc không gian giống như đồng hồ có tầm quan trọng trong việc đo đạc thời gian. Chúng báo hiệu việc con người làm chủ thiên nhiên, khám phá và đánh dấu những kích thước của kinh nghiệm. Chúng thay thế những hình dạng ngẫu nhiên của thiên nhiên bằng những đơn vị chính xác tiện cho con người sử dụng.
Không thể chối cãi rằng Ptolêmê là cha đẻ của địa lý cận đại, nhưng tiếc rằng người ta đã mãi mãi gắn liền ông với một khoa thiên văn lạc hậu! Một lý do cắt nghĩa tại sao Ptolêmê có một hình ảnh lu mờ trong lịch sử khoa địa lý, đó là chúng ta biết quá ít về cuộc đời của ông. Không biết ông là người Ai Cập gốc Hy Lạp hay người Hy Lạp gốc Ai Cập, vì ông mang một cái tên vừa phổ thông ở thành phố Alexandria Ai Cập, vừa ngẫu nhiên trùng hợp với tên một người bạn thân thiết nhất của Alexader Đại Đế. Một người khác cũng có tên Ptolêmê đã trở thành tổng trấn Ai Cập sau khi Alexander chết, rồi tự xưng vua và thiết lập triều đại Ptolêmê cai trị Ai Cập suốt 3 thế kỷ (304-30 trước C.N.). Nhưng những người có tên Ptolêmê đó là những nhà cai trị, còn ông Ptolêmê này là một nhà khoa học.
Có vẻ Ptolêmê có thiên tài trong việc cải thiện công trình của những người khác và trong việc phối hợp vô vàn kiến thức lẻ tẻ thành những công thức phổ quát hữu ích. Những tác phẩm của ông như Almagest về thiên văn học, địa lý, Tetrabiblos về chiêm tinh học, cùng với những tác phẩm về âm nhạc, quang học và bảng niên biểu các đời vua của thế giới được ông biết đến, đã tóm lược tư tưởng cao nhất của thời đại ông. Về địa lý, ông tham khảo Eratosthenes và Hypparchus. Ptolêmê cũng thường nhìn nhận mình mắc nợ với Strabo, nhà địa lý và sử học rất phong phú với các phẩm sử dụng truyền thống, huyền thoại và những cuộc hành trình xa rộng của mình để tìm hiểu thế giới thời bấy giờ.
Điều kỳ diệu nhất là Ptolêmê đã duy trì được một ảnh hưởng mạnh đến thế nào suốt hai thiên niên kỷ sau khi ông chết. Những bản đồ chúng ta vẽ thời nay vẫn còn sử dụng những bộ khung và từ vựng do Ptolêmê sáng chế. Hệ thống các ô mà ông đã đón nhận và cải tiến vẫn còn là cơ bản cho việc vẽ bản đồ thời nay. Ông là người đầu tiên phổ biến và cũng có thể chính ông đã sáng chế ra những thuật ngữ vĩ tuyến và kinh tuyến. Tuy nhiên đối với Ptolêmê, những từ này cũng mang thêm ý nghĩa về “chiều rộng” và “chiều dài” của thế giới bây giờ, mà ngày nay những ý nghĩa này không còn nữa. Trong cuốn Địa Lý, ông đã đưa ra vĩ tuyến và kinh tuyến cho 8,000 chỗ. Ông sáng chế ra qui ước về phương hướng cho các bản đồ theo hướng bắc ở phía trên và hướng đông ở bên phải và qui ước này vẫn còn là yếu tố cốt yếu cho khoa vẽ bản đồ ngày nay. Lý do của điều này có thể là vì những nơi được biết đến nhiều nhất thời đó đều nằm ở bán cầu phía bắc và trên một bản đồ phẳng những nơi này sẽ dễ nghiên cứu hơn nếu nó nằm ở góc cao bên phải. Ông chia bản đồ thế giới của mình thành 26 miền và ông thay đổi tỷ lệ để cho thấy nhiều chi tiết hơn trong các miền đông dân cư. Ông đã thiết lập cho các học giả thời nay sự phân biệt giữa địa lý “geography, bản đồ của toàn thể trái đất” và địa chí (chorography, bản đồ chi tiết của những nơi nhất định). Ông theo Hipparchus chia vòng tròn và hình cầu thành 3600 và chia nhỏ mỗi độ này thành partes minutae (= những phần nhỏ cấp 1, tiếng Tây phương trở thành “minutes”= phút), rồi mỗi phần này lại chia thành partes minutae secundae (= những phần nhỏ cấp 2, tiếng Tây phương trở thành “seconds”= giây) của cung.
Ptolêmê đã can đảm đối diện với những hệ quả của khoa vẽ bản đồ theo hình thể quả cầu của trái đất. Và ông đã khai triển một bảng dây cung, dựa trên khoa lượng giác của Hipparchus, để xác định khoảng cách giữa các nơi. Ông sáng chế ra phương pháp chiếu trái đất hình cầu xuống một mặt phẳng. Những sai lầm của Ptolêmê không phải do ông không có óc phê bình. Ông nói rằng giả thuyết tốt nhất là giả thuyết đơn giản nhất có thể lý giải các Sự kiện. Ông cảnh giác chúng ta chỉ chấp nhận những dữ liệu đã được phê bình bởi những bằng chứng khác nhau.
Nhược điểm chủ yếu của Ptolêmê là ở chỗ ông thiếu những sự kiện. Dần dần về sau, những nhà quan sát chuyên môn trên khắp thế giới sẽ thu thập được những dữ liệu để thỏa mãn những đòi hỏi của bản đồ thế giới. Chúng ta không ngạc nhiên là với kho dữ liệu hạn chế của mình, Ptolêmê đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng.
Một trong số những sai lầm này có lẽ là sự tính toán sai có ảnh hưởng mạnh nhất trong lịch sử. Đối với chu vi trái đất, Ptolêmê bác bỏ tính toán rất chính xác của Erastothenes, Ptolêmê tính mỗi độ của trái đất chỉ có 50 dặm thay vì 70 và rồi ông theo nhà bác học Hy Lạp Posidonius (khoảng 135-52 trước C.N.) và Strabo, ông tuyên bố chu vi trái đất là 18,000 dặm. Cùng với việc tính toán quá thấp này, ông phạm thêm sai lầm là kéo dài châu Á về phía đông quá xa kích thước thực sự của nó, tới 1800 thay vì đúng là 1300. Hậu quả là bản đồ của ông đã thu hẹp rất nhiều những phần thế giới chưa được biết đến giữa mép phía đông châu Á và mép phía tây châu Âu. Nhưng sai lầm của Ptolêmê lại là một điều may. Giả như ông đã không theo Strabo mà theo Erastothenes, cuộc gặp gỡ của châu Âu với Tân Thế Giới đã có thể bị trì hoãn đến bao lâu? Và rồi, giả như Colômbô đã biết được chiều rộng đích thực của trái đất? Nhưng Colômbô đã theo Ptolêmê, vì thời đó không có uy tín địa lý nào cao hơn Ptolêmê. Colômbô lại còn tăng viễn tưởng của mình bằng cách tính độ của trái đất 10 phần trăm nhỏ hơn tính toán của ptolêmê.
Hơn nữa, không phải chỉ có những sai lầm của Ptolêmê làm cho ông có công trong thành tích của Colômbô. Bằng việc sử dụng tất cả những sự kiện có sẵn để khẳng định tính hình cầu của trái đất và rồi bằng việc thiết lập mạng vĩ tuyến-kinh tuyến làm điểm đối chiếu cho những kiến thức mỗi ngày một gia tăng, Ptolêmê đã chuẩn bị cho châu Âu đi vào cuộc thám hiểm thế giới. Ptolêmê đã bác bỏ ý tưởng của Homer cho rằng quanh thế giới toàn là Đại dương không thể ở được. Ngược lại, ông còn gợi ý cho thấy đất còn bao la chưa được biết đến và còn phải được khám phá, nhờ đó ông đã kích thích các đầu óc tìm tòi. Tưởng tượng ra cái chưa biết thì khó hơn nhiều so với việc vẽ ra những đường nét của những cái mà người ta tưởng là mình đã biết.
Không những đối với Colômbô, mà cả đối với những người Ả Rập và những người khác đã từng tin tưởng nơi kho tàng kiến thức cổ điển, Ptolêmê luôn luôn là nguồn, tiêu chuẩn và thầy dạy của khoa địa lý thế giới. Giả như trong thiên niên kỷ sau Ptolêmê, các nhà hàng hải và các vị vua bảo trợ cho họ đã tự do và mạo hiểm khởi hành từ chỗ mà Ptolêmê đã đạt đến, lịch sử của cả Thế Giới Cũ và Thế Giới Mới chắc hẳn đã phải khác hơn nhiều.
Châu Âu kitô giáo không đi theo công trình của Ptolêmê. Thay vào đó, những lãnh tụ Kitô giáo bảo thủ đã dựng một rào cản trước sự tiến bộ trong kiến thức về trái đất. Các nhà địa lý Kitô giáo thời Trung Cổ dồn sức lực của mình vào việc thêu dệt một hình ảnh sắc gọn, thần học, về những điều đã biết hay nghĩ là đã biết.
Qua các lữ khách, Eratosthenes nghe nói rằng vào giữa trưa ngày 21 tháng 6, mặt trời không đổ bóng trong một cái giếng ở Syene (nay là Aswan), nghĩa là mặt trời ở ngay trên đỉnh đầu. Ông biết rằng mặt trời luôn đổ bóng tại Alexandria. Từ những kiến thức có sẵn vào thời đó, ông suy ra rằng Syene phải ở phía nam Alexandria. Ông nảy ra ý tưởng là nếu có thể đo được chiều dài của bóng mặt trời ở Alexandria vào lúc mà ở Syene không có bóng mặt trời, thì ông có thể tính được chu vi của trái đất. Ngày 21 tháng 6 ông đo bóng của một cột kỷ niệm tại Alexandria và bằng cách tính đơn giản của hình học ông tính được mặt trời ở 7014’ cách đỉnh đầu. Độ nghiêng này bằng 1 phần 50 của một vòng trong 3600. Tính toán này chính xác một cách lạ lùng, vì độ khác biệt thực sự giữa vĩ độ của Aswan và Alexandria, theo những tính toán hoàn hảo nhất của chúng ta ngày nay, là 7014’. Như thế chu vi của trái đất bằng 50 lần khoảng cách từ Syene tới Alexandria. Nhưng khoảng cách này là bao nhiêu? Qua lữ khách, ông biết rằng những con lạc đà phải mất 50 ngày để đi hết quãng hành trình này và lạc đà mỗi ngày đi được 100 stadium. Như thế khoảng cách từ Syene tới Alexandria là 5,000 stadium (50x100). Từ đó ông tính được chu vi của trái đất là 250,000 stadium (50x5000). Một stadium của Hy Lạp tương đương 607 feet Anh. Theo cách tính toán này, Eratosthenes đã đạt đến một con số cho chu vi của trái đất là khoảng 28,700 dặm, cao hơn con số thật chúng ta biết ngày nay khoảng 15 phần trăm.
Việc đo các góc của ông chính xác hơn việc đo khoảng cách và điều này không đáng ngạc nhiên. Trong lịch sử đo đạc, góc luôn luôn được đo chính xác hơn khoảng cách rất nhiều. Sự chính xác về tính toán chu vi trái đất của Eratosthenes không ai vượt qua được cho tới thời cận đại. Sự kết hợp hiệu quả giữa lý thuyết thiên văn và toán học với kinh nghiệm hằng ngày của ông đã cống hiến chúng ta một mẫu mực mà sau ông người ta đã lãng quên suốt thời gian quá dài.
Nhưng kỹ thuật của ông để đo đạc bề mặt trái đất còn quan trọng hơn những số liệu tính toán của ông rất nhiều. Chúng ta biết điều này nhờ những bài đả kích Eratosthenes do Hipparchus ở Nicea (khoảng 165-127 trước Công nguyên), người được coi là nhà thiên văn lớn nhất của Hy Lạp. Hipparchus là người đã khám phá ra tiến động của các điểm phân, liệt kê ra 1,000 ngôi sao và chung chung người ta nhìn nhận ông là người phát minh ra toán lượng giác. Nhưng Hipparchus có một mối tị hiềm rất mạnh đối với Eratosthenes, người đã chết 30 năm trước khi Hipparchus sinh ra. Eratosthenes đã chia trái đất bằng những đường song song đông-tây và bắc-nam. Ông chia thế giới ở được thành Miền Bắc và Miền Nam bằng một đường đông-tây song song với xích đạo, chạy qua đảo Rhodes và chia đôi biển Địa Trung Hải. Rồi ông thêm một đường thẳng góc bắc-nam, chạy qua Alexandria. Trên bản đồ của Eratosthennes, các đường khác-đông-tây và bắc-nam-không được vẽ cách đều nhau. Ngược lại, ông đã vẽ những đường này qua các điểm nổi tiếng và quen thuộc thời đó-Alexandria, Rhodes, Meroe, Pillars của Hercules, Sicily, sông Euphrate, cửa Vịnh Ba Tư, cửa sông Indus, mũi bán đảo ấn Độ. Kết quả là một mạng lưới không đều đặn trên mặt hình cầu của trái đất.
Hipparhus đã đi bước tiếp theo. Tại sao không vẽ những đường tròn kín quanh địa cầu, tất cả song song với đường xích đạo và cách đều từ xích đạo tới hai cực? Rồi sau đó cũng vẽ những đường khác thẳng góc với những đường song song và cách đều quĩ đạo này. Kết quả sẽ có một mạng lưới đều đặn bao phủ toàn mặt hành tinh. Các đường này không chỉ mô tả các vùng trên mặt đất nhận được ánh mặt trời ở những góc giống nhau. Nếu đánh số cho những đường ấy, chúng có thể cho ta một tập hợp các tọa độ để định vị trí của mọi nơi trên trái đất. Lúc đó thật dễ biết bao để nói cho bất cứ ai biết chỗ của bất cứ thành phố, con sông, hay ngọn núi nào trên hành tinh này!
Eratosthenes đã hình dung ra một cách mơ hồ những khả năng của một bản đồ như thế. Nhưng vào thời kỳ của ông, hầu hết những chỗ mà người ta cần tìm trên bản đồ đều chỉ được xác định bởi những câu chuyện của các lữ khách và bởi truyền thống. Ông biết là chưa đủ, nhưng ông không có đủ những điểm mốc đủ chính xác để vẽ bản đồ của mình. Hipparchus tiếp tục công việc đó bằng cách nhấn mạnh rằng mỗi điểm phải được xác định bằng việc quan sát thiên văn chính xác để có một bản đồ toàn cầu gồm các vĩ tuyến và kinh tuyến. Ông không chỉ có ý tưởng đúng mà còn thấy làm cách nào có thể đưa ý tưởng của mình vào một bản đồ chính xác và thực dụng. Bằng cách sử dụng những hiện tượng thiên văn chung của toàn thể trái đất để định vị trí các nơi trên mặt đất, ông đã thiết lập khuôn mẫu cho việc vẽ bản đồ của hành tinh này.
Tiện thể, Hipparchus đã sáng tạo ra từ vựng toán học vẫn còn được sử dụng ngày nay. Eratosthenes đã chia mặt đất thành 60 phần, nhưng Hipparchus lại chia nó thành 360 phần để trở thành những “độ” cho các nhà địa lý thời đại mới. Ông đặt những đường kinh tuyến của mình trên xích đạo ở những khoảng cách nhau 70 dặm, xấp xỉ kích thước của một “độ”. Bằng cách phối hợp những đường klimata trước kia với những đường kinh tuyến này, ông đã cho ra những khái niệm về một bản đồ thế giới dựa trên những quan sát thiên văn về vĩ tuyến và kinh tuyến.
Vĩ tuyến và kinh tuyến có tầm quan trọng trong việc đo đạc không gian giống như đồng hồ có tầm quan trọng trong việc đo đạc thời gian. Chúng báo hiệu việc con người làm chủ thiên nhiên, khám phá và đánh dấu những kích thước của kinh nghiệm.
Vĩ tuyến và kinh tuyến có tầm quan trọng trong việc đo đạc không gian giống như đồng hồ có tầm quan trọng trong việc đo đạc thời gian. Chúng báo hiệu việc con người làm chủ thiên nhiên, khám phá và đánh dấu những kích thước của kinh nghiệm. Chúng thay thế những hình dạng ngẫu nhiên của thiên nhiên bằng những đơn vị chính xác tiện cho con người sử dụng.
Không thể chối cãi rằng Ptolêmê là cha đẻ của địa lý cận đại, nhưng tiếc rằng người ta đã mãi mãi gắn liền ông với một khoa thiên văn lạc hậu! Một lý do cắt nghĩa tại sao Ptolêmê có một hình ảnh lu mờ trong lịch sử khoa địa lý, đó là chúng ta biết quá ít về cuộc đời của ông. Không biết ông là người Ai Cập gốc Hy Lạp hay người Hy Lạp gốc Ai Cập, vì ông mang một cái tên vừa phổ thông ở thành phố Alexandria Ai Cập, vừa ngẫu nhiên trùng hợp với tên một người bạn thân thiết nhất của Alexader Đại Đế. Một người khác cũng có tên Ptolêmê đã trở thành tổng trấn Ai Cập sau khi Alexander chết, rồi tự xưng vua và thiết lập triều đại Ptolêmê cai trị Ai Cập suốt 3 thế kỷ (304-30 trước C.N.). Nhưng những người có tên Ptolêmê đó là những nhà cai trị, còn ông Ptolêmê này là một nhà khoa học.
Có vẻ Ptolêmê có thiên tài trong việc cải thiện công trình của những người khác và trong việc phối hợp vô vàn kiến thức lẻ tẻ thành những công thức phổ quát hữu ích. Những tác phẩm của ông như Almagest về thiên văn học, địa lý, Tetrabiblos về chiêm tinh học, cùng với những tác phẩm về âm nhạc, quang học và bảng niên biểu các đời vua của thế giới được ông biết đến, đã tóm lược tư tưởng cao nhất của thời đại ông. Về địa lý, ông tham khảo Eratosthenes và Hypparchus. Ptolêmê cũng thường nhìn nhận mình mắc nợ với Strabo, nhà địa lý và sử học rất phong phú với các phẩm sử dụng truyền thống, huyền thoại và những cuộc hành trình xa rộng của mình để tìm hiểu thế giới thời bấy giờ.
Điều kỳ diệu nhất là Ptolêmê đã duy trì được một ảnh hưởng mạnh đến thế nào suốt hai thiên niên kỷ sau khi ông chết. Những bản đồ chúng ta vẽ thời nay vẫn còn sử dụng những bộ khung và từ vựng do Ptolêmê sáng chế. Hệ thống các ô mà ông đã đón nhận và cải tiến vẫn còn là cơ bản cho việc vẽ bản đồ thời nay. Ông là người đầu tiên phổ biến và cũng có thể chính ông đã sáng chế ra những thuật ngữ vĩ tuyến và kinh tuyến. Tuy nhiên đối với Ptolêmê, những từ này cũng mang thêm ý nghĩa về “chiều rộng” và “chiều dài” của thế giới bây giờ, mà ngày nay những ý nghĩa này không còn nữa. Trong cuốn Địa Lý, ông đã đưa ra vĩ tuyến và kinh tuyến cho 8,000 chỗ. Ông sáng chế ra qui ước về phương hướng cho các bản đồ theo hướng bắc ở phía trên và hướng đông ở bên phải và qui ước này vẫn còn là yếu tố cốt yếu cho khoa vẽ bản đồ ngày nay. Lý do của điều này có thể là vì những nơi được biết đến nhiều nhất thời đó đều nằm ở bán cầu phía bắc và trên một bản đồ phẳng những nơi này sẽ dễ nghiên cứu hơn nếu nó nằm ở góc cao bên phải. Ông chia bản đồ thế giới của mình thành 26 miền và ông thay đổi tỷ lệ để cho thấy nhiều chi tiết hơn trong các miền đông dân cư. Ông đã thiết lập cho các học giả thời nay sự phân biệt giữa địa lý “geography, bản đồ của toàn thể trái đất” và địa chí (chorography, bản đồ chi tiết của những nơi nhất định). Ông theo Hipparchus chia vòng tròn và hình cầu thành 3600 và chia nhỏ mỗi độ này thành partes minutae (= những phần nhỏ cấp 1, tiếng Tây phương trở thành “minutes”= phút), rồi mỗi phần này lại chia thành partes minutae secundae (= những phần nhỏ cấp 2, tiếng Tây phương trở thành “seconds”= giây) của cung.
Ptolêmê đã can đảm đối diện với những hệ quả của khoa vẽ bản đồ theo hình thể quả cầu của trái đất. Và ông đã khai triển một bảng dây cung, dựa trên khoa lượng giác của Hipparchus, để xác định khoảng cách giữa các nơi. Ông sáng chế ra phương pháp chiếu trái đất hình cầu xuống một mặt phẳng. Những sai lầm của Ptolêmê không phải do ông không có óc phê bình. Ông nói rằng giả thuyết tốt nhất là giả thuyết đơn giản nhất có thể lý giải các Sự kiện. Ông cảnh giác chúng ta chỉ chấp nhận những dữ liệu đã được phê bình bởi những bằng chứng khác nhau.
Nhược điểm chủ yếu của Ptolêmê là ở chỗ ông thiếu những sự kiện. Dần dần về sau, những nhà quan sát chuyên môn trên khắp thế giới sẽ thu thập được những dữ liệu để thỏa mãn những đòi hỏi của bản đồ thế giới. Chúng ta không ngạc nhiên là với kho dữ liệu hạn chế của mình, Ptolêmê đã mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng.
Một trong số những sai lầm này có lẽ là sự tính toán sai có ảnh hưởng mạnh nhất trong lịch sử. Đối với chu vi trái đất, Ptolêmê bác bỏ tính toán rất chính xác của Erastothenes, Ptolêmê tính mỗi độ của trái đất chỉ có 50 dặm thay vì 70 và rồi ông theo nhà bác học Hy Lạp Posidonius (khoảng 135-52 trước C.N.) và Strabo, ông tuyên bố chu vi trái đất là 18,000 dặm. Cùng với việc tính toán quá thấp này, ông phạm thêm sai lầm là kéo dài châu Á về phía đông quá xa kích thước thực sự của nó, tới 1800 thay vì đúng là 1300. Hậu quả là bản đồ của ông đã thu hẹp rất nhiều những phần thế giới chưa được biết đến giữa mép phía đông châu Á và mép phía tây châu Âu. Nhưng sai lầm của Ptolêmê lại là một điều may. Giả như ông đã không theo Strabo mà theo Erastothenes, cuộc gặp gỡ của châu Âu với Tân Thế Giới đã có thể bị trì hoãn đến bao lâu? Và rồi, giả như Colômbô đã biết được chiều rộng đích thực của trái đất? Nhưng Colômbô đã theo Ptolêmê, vì thời đó không có uy tín địa lý nào cao hơn Ptolêmê. Colômbô lại còn tăng viễn tưởng của mình bằng cách tính độ của trái đất 10 phần trăm nhỏ hơn tính toán của ptolêmê.
Hơn nữa, không phải chỉ có những sai lầm của Ptolêmê làm cho ông có công trong thành tích của Colômbô. Bằng việc sử dụng tất cả những sự kiện có sẵn để khẳng định tính hình cầu của trái đất và rồi bằng việc thiết lập mạng vĩ tuyến-kinh tuyến làm điểm đối chiếu cho những kiến thức mỗi ngày một gia tăng, Ptolêmê đã chuẩn bị cho châu Âu đi vào cuộc thám hiểm thế giới. Ptolêmê đã bác bỏ ý tưởng của Homer cho rằng quanh thế giới toàn là Đại dương không thể ở được. Ngược lại, ông còn gợi ý cho thấy đất còn bao la chưa được biết đến và còn phải được khám phá, nhờ đó ông đã kích thích các đầu óc tìm tòi. Tưởng tượng ra cái chưa biết thì khó hơn nhiều so với việc vẽ ra những đường nét của những cái mà người ta tưởng là mình đã biết.
Không những đối với Colômbô, mà cả đối với những người Ả Rập và những người khác đã từng tin tưởng nơi kho tàng kiến thức cổ điển, Ptolêmê luôn luôn là nguồn, tiêu chuẩn và thầy dạy của khoa địa lý thế giới. Giả như trong thiên niên kỷ sau Ptolêmê, các nhà hàng hải và các vị vua bảo trợ cho họ đã tự do và mạo hiểm khởi hành từ chỗ mà Ptolêmê đã đạt đến, lịch sử của cả Thế Giới Cũ và Thế Giới Mới chắc hẳn đã phải khác hơn nhiều.
Châu Âu kitô giáo không đi theo công trình của Ptolêmê. Thay vào đó, những lãnh tụ Kitô giáo bảo thủ đã dựng một rào cản trước sự tiến bộ trong kiến thức về trái đất. Các nhà địa lý Kitô giáo thời Trung Cổ dồn sức lực của mình vào việc thêu dệt một hình ảnh sắc gọn, thần học, về những điều đã biết hay nghĩ là đã biết.