Wednesday, October 19, 2011

Tin vắn y học tháng 10 - 2011

1. Kẽm cần thiết cho việc học và ghi nhớ
2. Thuốc chống mù lòa do đục thủy tinh thể
3. Ăn uống tốt làm giảm ảnh hưởng của gen xấu
4. Nam giới nên thận trọng với vitamin E
5. Tập thể dục giúp đẩy lùi các cơn đau nửa đầu
6. Lợi ích của hoa quả và rau xanh đối với tim
7. Sôcôla có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ
8. Thận trọng khi bổ sung vitamin và khoáng chất
9. Vai trò mỡ “tốt” HDL ở bệnh nhân đái tháo đường
10. Sắp có vaccin ngừa trứng cá?
11. Mỡ chống mỡ, cách mới chặn béo phì
12. Thuốc giảm đau có liên quan đến thị giác
13. Trẻ béo phì tăng gấp 3 lần nguy cơ cao huyết áp
14. Xét nghiệm máu giúp chẩn đoán bệnh đột quỵ
1. Kẽm cần thiết cho việc học và ghi nhớ

Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Toronto Scarborough (Candada) và các đồng nghiệp tại MIT và Đại học Duke (Mỹ) phát hiện ra rằng, kẽm đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cách các tế bào thần kinh giao tiếp với nhau, và có thể ảnh hưởng đến cách trí nhớ hình thành cũng như cách chúng ta học hỏi như thế nào.

Theo hãng tin UPI, các chuyên gia tạo ra một chất hóa học gọi là ZX1, chất sẽ liên kết với kẽm nhanh chóng sau khi nó được sản sinh từ một túi thần kinh. Sử dụng hóa chất này, họ có thể quan sát cách các tế bào thần kinh hoạt động như thế nào khi bị tước đoạt kẽm. Từ cách quan sát này, các chuyên gia kết luận rằng kẽm đóng vài trò quan trọng trong việc học và ghi nhớ.
2. Thuốc chống mù lòa do đục thủy tinh thể

Các nhà khoa học thuộc Trường đại học Adelaide, Úc ngày 14/10 công bố nghiên cứu thành công loại thuốc đầu tiên trên thế giới có thể ngăn ngừa mù lòa do bệnh đục thủy tinh thể ở người cao tuổi.

Giáo sư Andrew Abell, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết loại thuốc dưới dạng dung dịch hoặc kem nhỏ vào mắt có tác dụng tấn công trực tiếp vào một loại protein có tên Calpain trong mô mắt, giúp ngăn chặn quá trình phát triển bệnh đục thủy tinh thể dẫn đến mù lòa.

Bệnh đục thủy tinh thể xuất hiện khi protein Calpain phát triển mạnh trên mô mắt, ngăn không cho tia sáng lọt qua, kết quả võng mạc không thu được hình ảnh và thị lực bệnh nhân suy giảm dẫn đến mù lòa.

Loại thuốc này bước đầu thử nghiệm thành công trên động vật nhưng chưa được thử nghiệm trên người. Tuy nhiên, theo giáo sư Abell, nếu thử nghiệm thành công trên người, nó có thể thay thế hoàn toàn phẫu thuật - vốn là phương pháp duy nhất có hiệu quả trong việc chữa đục thủy tinh thể.

Theo giáo sư Abell: “Các bác sĩ nhãn khoa có thể dễ dàng chẩn đoán các dấu hiệu của bệnh đục thủy tinh thể, trước khi nó ảnh hưởng đến thị giác. Nhiều bệnh nhân đục thủy tinh thể cao tuổi không muốn tiến hành phẫu thuật và chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân này thường gặp nhiều trở ngại vì phải chờ đến thời điểm thích hợp mới có thể tiến hành phẫu thuật. Chúng tôi tin loại thuốc này có thể giúp ngặn ngừa bệnh đục thủy tinh thể ở người cao tuổi mà không phải phẫu thuật”.

Hiện nhóm nghiên cứu đã thành lập một công ty nghiên cứu loại thuốc phòng chống bệnh đục thủy tinh thể này. Dự kiến nó sẽ được sản xuất đại trà trong thời gian tới nếu thử nghiệm thành công trên người.
3. Ăn uống tốt làm giảm ảnh hưởng của gen xấu

Một chế độ ăn có lợi cho sức khỏe gồm nhiều rau xanh và trái cây không những tốt trong việc phòng ngừa bệnh tim mạch cho những người khỏe mạnh, mà ngay cả với người có nguy cơ mắc bệnh cao do di truyền.

Đây là kết quả nghiên cứu mới của các nhà dịch tễ học thuộc Trường ĐH McMaster (Ontario, Canada).

Nhóm nghiên cứu tiến hành đánh giá ảnh hưởng của chế độ ăn uống khỏe mạnh và một chế độ không có lợi cho sức khỏe trên hơn 27.000 người, trong đó có những người mang các gen xấu và có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch. Những người tham gia nghiên cứu thuộc các dân tộc từ châu Âu, Nam Á, Trung Quốc, Mỹ Latin và Ả Rập.

Kết quả phân tích cho thấy những người có gen “xấu” không tuân theo chế độ ăn uống có lợi cho sức khỏe sẽ tăng 30% nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Trong khi đó, nhóm thực hiện chế độ ăn uống thận trọng không tăng nguy cơ này.
4. Nam giới nên thận trọng với vitamin E

Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu xem liệu vitamin E hoặc selen có làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới tham gia vào Thử nghiệm Phòng ngừa Ung thư với Selen và Vitamin E (SELECT) hay không.

Trong năm 2008, các báo cáo ban đầu từ thử nghiệm này cho thấy cả vitamin E và selen đều không giúp giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Thay vào đó chúng có vẻ làm tăng nguy cơ mặc dù không đáng kể, nguy cơ có liên quan với vitamin E.

Các kết quả cập nhật được dựa trên một phân tích gồm gần 35.000 nam giới được chia ngẫu nhiên để dùng selen (200 mcg/ngày), vitamin E (400 IU/ngày), hoặc cả hai hoặc giả dược trong vòng 5,5 năm. Những nam giới tham gia nghiên cứu được theo dõi đến tháng 7/2011.

Các nhà nghiên cứu cho biết trong số tất cả nam giới tham gia thử nghiệm này, 529 người dùng giả dược bị ung thư tuyến tiền liệt so với 620 nam giới bổ sung vitamin E, 575 nam giới bổ sung selen và 555 nam giới bổ sung cả hai chế phẩm này.

Nhóm nghiên cứu lưu ý rằng mặc dù tỉ lệ ung thư tuyến tiền liệt cao hơn ở nam giới dùng các sản phẩm bổ sung so với nam giới dùng giả dược. Nhưng tỉ lệ này chỉ có ý nghĩa thống kê ở những nam giới bổ sung vitamin E, với nguy cơ tăng 17%.

Các tác giả cho biết hiện chưa có nhiều bằng chứng cho thấy sử dụng các vitamin bổ sung mang lại lợi ích cho những người khỏe mạnh có chế độ ăn bình thường. Cũng không có bằng chứng thuyết phục về việc sử dụng vitamin E ở liều này. Chúng không mang lại lợi ích về sức khỏe và thử nghiệm SELECT cho thấy vitamin E làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of the American Medical Association số ra ngày 12/10.
5. Tập thể dục giúp đẩy lùi các cơn đau nửa đầu

Một nghiên cứu từ Thụy Điển cho thấy tập thể dục có thể giúp phòng ngừa đau nửa đầu tốt như thuốc hoặc các kỹ thuật thư giãn.

Trong nghiên cứu này, Varkey và các cộng sự đã đánh giá 91 bệnh nhân đau nửa đầu trong giai đoạn 3 tháng.

1/3 số bệnh nhân được yêu cầu tập thể dục 40 phút 3 lần/tuần. 1/3 đối tượng tham gia khác thực hiện các kỹ thuật thư giãn và 1/3 số đối tượng còn lại được kê đơn thuốc.

Các nhà nghiên cứu đã theo dõi những bệnh nhân này từ 3-6 tháng sau khi kết thúc điều trị.

Kết quả được công bố trên tạp chí Cephalalgia cho thấy bệnh nhân ở cả 3 nhóm đều giảm các cơn đau nửa đầu. Tập thể dục có tác dụng phòng ngừa đau nửa đầu tương tự như thuốc và các liệu pháp thư giãn.

Tiến sĩ Robert Duarte nói: “Tập thể dục là một dạng thư giãn vốn được biết là giúp giải phóng endorphin, một chất giảm đau tự nhiên. Bệnh nhân bị đau nửa đầu được khuyến nghị nên kết hợp tập thể dục vào chương trình phòng ngừa đau nửa đầu.
6. Lợi ích của hoa quả và rau xanh đối với tim

Một nghiên cứu mới đây cho thấy ăn nhiều hoa quả và rau xanh có thể làm suy yếu tác động của biến thể gen 9p21 qua đó giúp giảm nguy cơ bệnh tim.

Biến thể gen 9p21 được biết là một trong những chỉ báo rõ nhất của bệnh tim.

Các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học McMaster và McGill đã xem xét chế độ ăn của hơn 27.000 người trên khắp thế giới gồm châu Âu, Trung Quốc và châu Mỹ latinh.

Họ thấy rằng những người mang gen nguy cơ cao có nguy cơ bị bệnh tim tương tự như những người mang biến thể nguy cơ thấp của gen này sau khi thực hiện chế độ ăn gồm nhiều hoa quả và rau xanh.

Tiến sĩ Sonia Anand, tác giả chính của nghiên cứu được công bố trên tạp chí PLoS Medicine, cho biết còn chưa rõ cách mà chế độ ăn ảnh hưởng tới gen này, song thông điệp của nghiên cứu này chỉ rõ rằng hoa quả và rau xanh tốt cho tim.

7. Sôcôla có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ

Một nghiên cứu mới đây cho thấy ăn sôcôla giúp giảm tới 20% nguy cơ đột quỵ ở phụ nữ.

Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Y học Môi trường ở Stockholm, Thụy Điển đã hỏi những phụ nữ độ tuổi từ 49-83 về mức độ tiêu thụ các thực phẩm khác nhau, bao gồm cả sôcôla. Trong nghiên cứu này, những phụ nữ ăn nhiều sôcôla nhất, đặc biệt là sôcôla có hàm lượng cacao cao, có nguy cơ đột quỵ thấp hơn.

Một số yếu tố nguy cơ đột quỵ đặc biệt ở phụ nữ bao gồm dùng thuốc tránh thai, mang thai, bị đau nửa đầu, vòng eo to hoặc dùng liệu pháp thay thế hormon.

Mặc dù sôcôla thực sự có lợi ích đối với sức khỏe song cần được sử dụng điều độ.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Journal of the American College of Cardiology.
8. Thận trọng khi bổ sung vitamin và khoáng chất

Một nghiên cứu gồm gần 39.000 phụ nữ cho thấy multivitamin, vitamin B, acid folic, sắt, magiê và đồng tất cả đều làm tăng nguy cơ tử vong sớm.

Hàng triệu phụ nữ đang sử dụng vitamin và các sản phẩm bổ sung khác song các nhà khoa học cho biết có ít bằng chứng về lợi ích của những sản phẩm này và thực tế một số loại có thể gây tác hại nghiêm trọng.

Các nhà khoa học từ Phần Lan, Na-uy, Mỹ và Hàn Quốc đã xem xét tác dụng lâu dài đối với sức khỏe của các loại vitamin và khoáng chất thông dụng ở 38.772 phụ nữ độ tuổi từ 55 đến 69.

Trong thời gian 18 năm những phụ nữ này ghi lại các sản phẩm bổ sung mà họ thường sử dụng.

Kết quả cho thấy các sản phẩm bổ sung đồng làm tăng 18% nguy cơ tử vong sớm. Acid folic - thường được kê đơn cho phụ nữ mang thai để phòng ngừa dị tật ống thần kinh như nứt đốt sống - làm tăng gần 6% nguy cơ trong khi sắt làm tăng 4% nguy cơ này.

Tăng nguy cơ tử vong sớm do multivitamin, vitamin B6, magiê và kẽm lần lượt là 2,4%, 4%, 3,6% và 3%.

Các nhà nghiên cứu chưa hoàn toàn hiểu tại sao các sản phẩm bổ sung này gây tử vong sớm song có thể là chúng ảnh hưởng tới hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể. Nhóm nghiên cứu khuyến nghị chỉ những người bị suy dinh dưỡng mới nên dùng các sản phẩm bổ sung và phải được theo dõi bởi các bác sĩ. Đối với người bình thường thì việc đảm bảo chế độ ăn cân bằng có thể cung cấp đầy đủ vitamin và khoáng chất cần thiết.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Archives of Internal Medicine.
9. Vai trò mỡ “tốt” HDL ở bệnh nhân đái tháo đường

Tăng mức mỡ “tốt” HDL có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ ở những bệnh nhân đái tháo đường týp 2.

Theo thống kê tại Mỹ, khoảng một nửa số bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có mức HDL thấp và mức cholesterol HDL < 40 mg/dL được xem là yếu tố nguy cơ của bệnh tim và đột quỵ. Các nhà nghiên cứu thuộc Tổ chức Sức khỏe Kaiser Permanente (Atlanta, Mỹ) đã tiến hành hồi cứu hồ sơ của hơn 30.000 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 từ năm 2001-2006. Những bệnh nhân này được xét nghiệm HDL cũng như ghi nhận tình trạng nhập viện vì những bệnh lý liên quan đến bệnh tim mạch và đột quỵ. Sau khi loại trừ các yếu tố có thể làm sai lệch kết quả, các nhà nghiên cứu nhận thấy cứ mỗi mức HDL tăng 5 mg/dL giúp giảm khoảng 4% nguy cơ phải nhập viện do những bệnh này. Mức HDL giảm khoảng 6,5 mg/dL sẽ làm tăng khoảng 11% nguy cơ mắc bệnh.

10. Sắp có vaccin ngừa trứng cá?

Đây có thể là một tin vui cho những người bị trứng cá.

Sanofi Pasteur, bộ phận vaccin của Sanofi đã thông báo là họ vừa có được đặc quyền trên toàn thế giới đối với một loại vaccin điều trị trứng cá. Đây có thể là một tin vui cho những người bị trứng cá, nhất là các bạn sắp bước vào tuổi dậy thì bởi trứng cá trên mặt luôn là rào cản khiến các bạn ngại tiếp xúc với người khác và có mặc cảm tâm lý nặng nề.

Theo một thông cáo, Sanofi tỏ ra rất lạc quan khi tuyên bố “sự phối hợp nghiên cứu và phát triển với Trường đại học Y, California, Mỹ trong việc tiếp cận miễn dịch phòng ngừa và điều trị trứng cá nhằm vào đặc tính trung hòa các thành phần của vi khuẩn Propionibacterium acnes (vốn có sẵn trong cơ thể con người và tạo nên các chất bã nhờn) trong viêm nhiễm dạng này có nhiều tín hiệu khả quan”.

Theo các ước tính của Sanofi Pasteur, hàng năm, thị trường thế giới mất khoảng 3 tỉ USD cho việc điều trị trứng cá.
11. Mỡ chống mỡ, cách mới chặn béo phì

Một hormon giúp mỡ chống mỡ có thể là một cách mới đối phó với dịch béo phì.

Hormon nói trên, có tên gọi orexin, ngăn chặn béo phì ở chuột bằng cách kích hoạt mỡ nâu, vốn rất hiệu quả trong việc đốt cháy calo. Mỡ cơ thể được gọi là mỡ trắng.

Các nhà khoa học nghĩ rằng mỡ nâu biến mất sau tuổi thơ ấu, nhưng những bước tiến gần đây về công nghệ hình ảnh đã dẫn đến việc tái khám phá loại mỡ này ở người trưởng thành.

Nhóm chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu Y khoa Sanford-Burnham ở bang Florida (Mỹ) phát hiện hormon orexin, vốn được sản sinh trong não, kích hoạt mỡ nâu ở chuột.

Tác giả nghiên cứu, ông Devanjan Sikder, cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp một lý do tại sao một số người bị béo phì dù không ăn quá nhiều. Rất có thể họ thiếu hormon orexin cần để kích hoạt mỡ nâu và gia tăng tiêu hao năng lượng”.

Việc thiếu orexin có liên quan đến bệnh béo phì. Thế nên việc bổ sung orexin có thể là một liệu pháp chữa trị béo phì và các chứng rối loạn trao đổi chất khác.

Đa phần thuốc giảm cân nhằm vào việc hạn chế sự thèm ăn của người sử dụng.
12. Thuốc giảm đau có liên quan đến thị giác

Những người cao tuổi uống aspirin hàng ngày sẽ có nguy cơ bị bệnh thoái hóa hoàng điểm ở mắt gấp đôi so với những người không thường xuyên uống. Đó là kết luận của các nhà khoa học châu Âu.

Các nhà nghiên cứu do GS Paulus de Jong tại Viện Khoa học thần kinh và học thuật Trung tâm Y tế Hà Lan thu thập thông tin sức khỏe và lối sống từ gần 4.700 người trên 65 tuổi ở các nước, bao gồm Na Uy, Estonia, Anh, Pháp, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha. Trong số những người sử dụng aspirin hàng ngày thì cứ 100 người, có 4 người bị thoái hóa hoàng điểm ở thể ướt, trong khi con số này chỉ là 2 ở những người ít sử dụng aspirin. Theo các nhà khoa học, thoái hóa hoàng điểm thể ướt là hiện tượng bị rò rỉ các mạch máu trong mắt, dẫn đến giảm thị lực ở trung tâm tầm nhìn của mắt. Các hình thức thoái hóa hoàng điểm thể khô phổ biến hơn và ít nghiêm trọng hơn, mặc dù về cơ bản cả hai thể này đều dẫn đến giảm thị lực ở người bệnh. Họ cũng cho rằng, aspirin không liên quan đến thể thoái hóa khô cũng như giai đoạn đầu của bệnh.

Các số liệu tại nghiên cứu không chỉ ra mối liên quan trực tiếp của aspirin với việc giảm thị lực. Tuy nhiên, những phát hiện được công bố tại các khoa mắt đã đưa ra một lưu ý hết sức quan tâm là những người cao tuổi thường xuyên uống aspirin như một liệu pháp phụ trong việc điều trị bệnh tim sẽ làm trầm trọng thêm những rối loạn ở mắt. Những người bị bệnh tim mạch uống aspirin để ngăn chặn tình trạng ngày càng xấu đi của bệnh và do những lợi ích của thuốc lớn hơn những rủi ro đối với sức khỏe thị giác, nên phần lớn mọi người không chú ý đến những tác dụng phụ này, bởi nhiều người quan niệm rằng dù có một sức khỏe thị giác tốt cũng không giúp gì được cho một cơ thể luôn cận kề với cái chết. Mặc dù vậy, GS William Christen Brigham ở Bệnh viện Boston (Mỹ) đưa ra lời khuyên: Đối với những người đã thoái hóa hoàng điểm liên quan đến tuổi, nên tránh dùng aspirin nhiều nhất có thể.
13. Trẻ béo phì tăng gấp 3 lần nguy cơ cao huyết áp

Theo các nhà nghiên cứu ở Viện Regenstrief và Đại học Y Ấn Độ thì trẻ em béo phì hoặc thừa cân tăng nguy cơ mắc cao huyết áp gấp 3 lần so với trẻ em có cân nặng bình thường.

Hơn 1100 trẻ em Ấn Độ khoẻ mạnh đang ở trong độ tuổi đi học đã được theo dõi trong gần 5 năm. Các nhà nghiên cứu thấy rằng khi chỉ số khối cơ thể BMI đạt tới hoặc vượt quá phần trăm thứ 85 so với độ tuổi và giới tính của trẻ thì nguy cơ mắc cao huyết áp tăng gần 3 lần. Béo phì được định nghĩa là tỷ lệ BMI cao hơn phần trăm thứ 95.

Trong số đối tượng tham gia nghiên cứu, 14% số trẻ béo phì hoặc thừa cân bị tiền cao huyết áp hoặc cao huyết áp so với chỉ 5% trong nhóm trẻ có cân nặng bình thường. Các kết quả này phù hợp với độ tuổi, giới tính và chủng tộc.

Tuổi trung bình của trẻ khi bắt đầu nghiên cứu là 10,2. Mỗi trẻ em được đánh giá gần 8 lần trong suốt thời gian nghiên cứu. Tất cả những trẻ em này đều khoẻ mạnh và không dùng thuốc hạ huyết áp.

Giáo sư Wanzhu Tu ở trường Đại học Y khoa Ấn Độ cho biết: “Các can thiệp có mục đích là cần thiết đối với những trẻ em này. Thậm chí giảm một ít trong chỉ số BMI cũng có thể mang lại nhiều lợi ích về sức khoẻ”.

Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện rằng leptin, một hormon protein liên quan tới chuyển hoá và điều tiết trọng lượng cơ thể có liên quan rõ ràng với tăng huyết áp ở trẻ thừa cân và béo phì.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Hypertension số ra tháng 11.
14. Xét nghiệm máu giúp chẩn đoán bệnh đột quỵ

Các nhà nghiên cứu Trường ĐH Y khoa Penn State (Hershey, Mỹ) cho biết họ đang tiến hành xây dựng một xét nghiệm máu nhằm giúp phát hiện nhanh bệnh đột quỵ do thiếu máu. Đây là một dạng phổ biến của bệnh đột quỵ thường xuất hiện khi mạch máu não bị tắc nghẽn do huyết khối.

Xét nghiệm được thực hiện bằng cách định lượng chất glutamate trong máu não. Khi máu đi qua vùng não bị tổn thương, glutamate được phóng thích nhanh vào dòng máu.

Kết quả bước đầu cho thấy xét nghiệm giúp chẩn đoán đúng 98% bệnh nhân bị đột quỵ do thiếu máu não và 86% ở những người chưa xuất hiện triệu chứng đột quỵ. Theo các nhà nghiên cứu, xét nghiệm này giúp bác sĩ thuận lợi hơn trong việc chẩn đoán và điều trị sớm trước khi chờ xét nghiệm chụp CT hoặc MRI.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...