1. Mầm cải xanh ngừa bệnh dạ dày
2. Nga thử nghiệm thành công vaccin HIV
3. Rau quả làm giảm nguy cơ đột quỵ ở phụ nữ
4. Thiếu vitamin D có thể gây vô sinh
5. Cà chua tăng khả năng làm bố
6. Lợi ích của trà xanh đối với người già
7. Massage thường xuyên mang ích lợi cho cơ bắp
8. Phát hiện mới về thụ tinh trong ống nghiệm
9. Thuốc viên tránh thai giúp giảm đau bụng kinh
10. Nên ăn trứng vào buổi sáng
11. Sôcôla có thể giảm nguy cơ ung thư ruột
12. Chế độ ăn nhiều mỡ động vật và tiểu đường thai nghén
13. Mỗi ngày 1 ly sữa để tăng cường trí não
14. Dầu cá giảm đau do viêm khớp
2. Nga thử nghiệm thành công vaccin HIV
3. Rau quả làm giảm nguy cơ đột quỵ ở phụ nữ
4. Thiếu vitamin D có thể gây vô sinh
5. Cà chua tăng khả năng làm bố
6. Lợi ích của trà xanh đối với người già
7. Massage thường xuyên mang ích lợi cho cơ bắp
8. Phát hiện mới về thụ tinh trong ống nghiệm
9. Thuốc viên tránh thai giúp giảm đau bụng kinh
10. Nên ăn trứng vào buổi sáng
11. Sôcôla có thể giảm nguy cơ ung thư ruột
12. Chế độ ăn nhiều mỡ động vật và tiểu đường thai nghén
13. Mỗi ngày 1 ly sữa để tăng cường trí não
14. Dầu cá giảm đau do viêm khớp
1. Mầm cải xanh ngừa bệnh dạ dày
Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy, ăn 70g mầm cải non hàng ngày có thể ngăn ngừa bệnh viêm, loét dạ dày, thậm chí là ung thư dạ dày.
Theo các nhà khoa học, trong mầm cải tươi có chứa nhiều chất sulforaphane, một hóa chất sinh học tự nhiên, sản xuất ra các enzym chống lại quá trình ôxy hóa, các hóa chất phá hủy ADN và các chất gây viêm sưng. “Chúng tôi đã xác minh được lợi ích từ ăn mầm cải hàng ngày. Nó giúp bảo vệ dạ dày, kể cả việc chống lại bệnh ung thư” - Jed Fahey, nhà dinh dưỡng sinh hóa tại Trung tâm nghiên cứu Ung thư ở trường ĐH Y khoa Johns Hopkins cho biết.
Theo các nhà khoa học, mầm cải xanh có nhiều chất sulforaphane hơn cả bông cải, khi các nhà khoa học cho 25 người bị nhiễm vi khuẩn trên ăn mầm cải thì trong cơ thể họ có đủ lượng enzym để loại bỏ sự viêm nhiễm cũng như viêm sưng và giảm được nguy cơ viêm loét gây ra bệnh ung thư dạ dày.
2. Nga thử nghiệm thành công vaccin HIV
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu virus và công nghệ sinh học, Vektor (Nga), ông Alexander Sergeyev hôm 6/2 cho biết, Vektor vừa hoàn thành giai đoạn thử nghiệm lâm sàng vaccin virus HIV thành công.
Theo ông Sergeyev, vaccin này có chất kháng thể mạnh (kháng nguyên), và phản ứng di động.
Vektor cho hay, trước đó, họ đã phát triển một trong những vaccin mạnh và tiên tiến nhất trên thế giới. Tính đến ngày 1/11/2011, Nga có 636.979 trường hợp nhiễm virus HIV, con số kỷ lục kể từ khi lưu trữ hồ sơ bắt đầu vào năm 1987. Con số này đã tằng gần gấp đôi kể từ năm 2006. Tổng số 104.257 bệnh nhân HIV đã tử vong.
Được biết, HIV là virus suy giảm miễn dịch ở người lây nhiễm vào các tế bào của hệ miễn dịch và phá hủy hoặc làm suy yếu chức năng của chúng. Bệnh nhân mắc phải căn bệnh này sẽ bị suy giảm hệ miễn dịch và phá vỡ khả năng chống lại nhiễm trùng và bệnh tật của cơ thể.
Giai đoạn chuyển từ HIV sang AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải) là giai đoạn tiến triển và chuyển sang giai đoạn hai của nhiễm HIV.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2011 thống kê, số lượng người nhiễm HIV trên toàn thế giới tiếp tục tăng, đạt khoảng 33,3 triệu người trong năm 2009, với 2,6 triệu người bị nhiễm mới và 1,8 triệu người HIV/AIDS tử vong, được ghi nhận trong báo cáo.
HIV/AIDS vẫn là một trong những thách thức của thế giới, đặc biệt ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Khoảng 10 triệu người trên toàn thế giới cần điều trị kháng virus, song không có đủ tiền chi tra để điều trị căn bệnh thế kỷ này.
3. Rau quả làm giảm nguy cơ đột quỵ ở phụ nữ
Nghiên cứu mới cho thấy chế độ ăn giàu chất chống ôxy hóa từ hoa quả, rau và ngũ cốc nguyên cám tỏ ra làm giảm tỷ lệ đột quỵ ở phụ nữ, ngay cả khi họ có tiền sử bị bệnh tim trước đó.
Nghiên cứu Thụy Điển, được đăng trên số ra ngày 1/12 của tạp chí Stroke, bao gồm hơn 31.000 phụ nữ không bị bệnh tim và gần 5.700 phụ nữ có tiền sử bị bệnh tim. Những phụ nữ này, từ 49-83 tuổi, được theo dõi trong trung bình 11,5 năm (đối với nhóm không bị bệnh tim) hoặc gần 10 năm (đối với nhóm bị bệnh tim).
Trong thời gian theo dõi, hơn 1.300 ca đột quỵ xuất hiện ở nhóm không có bệnh tim và hơn 1.000 ca đột quỵ xuất hiện ở nhóm có bệnh tim.
Sau đó nhóm nghiên cứu đã sử dụng thông tin về chế độ ăn để xác định “khả năng chống ôxy hóa toàn phần (total antioxidant capacity - TAC)" của phụ nữ, một cách đánh giá khả năng của các chất từ thức ăn triệt thoái được “các gốc tự do” trong tế bào liên quan đến gây bệnh. Tổn thương tế bào do các gốc tự do có thể dẫn tới viêm, tổn thương và xơ cứng mạch máu.
Trong số những phụ nữ không có tiền sử bị bệnh tim, người có nồng độ chất chống ôxy hóa từ chế độ ăn cao nhất có nguy cơ đột quỵ thấp hơn 17% so với người có nồng độ thấp nhất.
Lợi ích được mở rộng tới những phụ nữ mắc bệnh tim. Trong nhóm này, phụ nữ có nồng độ chất chống ôxy hóa từ chế độ ăn cao nhất có nguy cơ đột quỵ chảy máu thấp hơn 57% so với người có nồng độ thấp nhất.
Theo các tác giả nghiên cứu, hoa quả và rau xanh đóng góp khoảng 50% khả năng chống ôxy hóa ở phụ nữ không có tiền sử bệnh tim có TAC cao nhất. Những yếu tố góp phần khác bao gồm ngũ cốc nguyên cám (18%), trà (16%) và sôcôla (5%).
4. Thiếu vitamin D có thể gây vô sinh
Sau khi phân tích rất nhiều nghiên cứu, hai nhà khoa học Áo Barbara Obermayer-Pietsch và Elisabeth Lerchbaum đã phát hiện nồng độ vitamin D có liên quan tới khả năng sản sinh những hormon nam giới. Cụ thể hơn là có mối liên quan giữa vitamin D và tăng nồng độ testosteron, tiếp đến là tăng chất lượng tinh trùng.
Obermayer-Pietsch giải thích, vì vitamin D giữ vai trò quan trọng trong quá trình sản sinh hormon ở cả nữ giới nên nồng độ vitamin D thấp thường dẫn tới quá nhiều testosterone. Do đó, có thể làm tăng nguy cơ vô sinh ở nữ giới.
Các nhà khoa học sẽ tiếp tục tiến hành thêm các nghiên cứu sâu hơn để tìm ra những biện pháp điều trị mới, kể cả tái sản sinh vitamin D.
Có thể bổ sung vitamin D bằng phương pháp tắm nắng, thực phẩm (dù trong thực phẩm hàm lượng vitamin D không nhiều). Những thực phẩm giàu vitamin D là cá, dầu gan cá, trứng, bơ…
Các kết quả nghiên cứu được đăng trên tạp chí European Journal of Endocrinology.
5. Cà chua tăng khả năng làm bố
Các nhà khoa học Anh mới đây đã công bố một kết quả nghiên cứu gây chú ý: việc ăn súp (canh) cà chua mỗi ngày có thể giúp cơ thể hấp thu được nhiều lycopene hơn, nhờ vậy nâng cao khả năng sinh sản ở đàn ông.
Theo bài viết đăng trên tạp chí British Journal Urology, nhóm nghiên cứu thuộc trường đại học Portsmouth đã lựa chọn bất kỳ 6 người đàn ông khỏe mạnh ở độ tuổi 42, sau đó cho họ ăn mỗi ngày 400g súp cà chua liên tục trong 2 tuần.
Kết quả cho thấy, hàm lượng lycopene trong tinh dịch của những người này đã tăng từ 7-12%. Vì giới khoa học trước đó đã thừa nhận hàm lượng lycopene ở tinh dịch của những người đàn ông vô sinh cực thấp, do vậy nhóm nghiên cứu tin rằng việc lycopene tăng cao có liên quan tới việc khả năng sinh sản ở đàn ông được nâng lên. Không chỉ vậy, chất lycopene có khả năng chống ôxy hóa cao, nhờ vậy có thể tiêu diệt các chất có hại cho khả năng sinh sản trong cơ thể.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng chất lycopene trong cà chua có tác dụng chống hen suyễn do vận động gây ra và giảm thiểu nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên tác dụng của cà chua đối với khả năng sinh sản được phát hiện ra.
6. Lợi ích của trà xanh đối với người già
Một nghiên cứu lớn ở Nhật Bản cho thấy người già thường xuyên uống trà xanh sẽ nhanh nhẹn và độc lập hơn so với những người cùng độ tuổi không dùng loại trà này.
Trà xanh chứa các chất chống ôxy hóa - đặc biệt là hợp chất EGCG - giúp ngăn ngừa tổn thương tế bào.
Trong nghiên cứu này gồm gần 14.000 người lớn độ tuổi ≥ 65, các tác giả phát hiện ra rằng những người uống trà xanh nhiều nhất ít bị “tàn phế chức năng” trong vòng 3 năm sau.
Tàn phế chức năng đề cập đến các vấn đề trong hoạt động hàng ngày như đi mua bán hoặc làm việc nhà, hay các vấn đề liên quan đến những nhu cầu cơ bản hơn như tắm rửa và mặc quần áo.
Trong nghiên cứu này, gần 13% người lớn uống dưới 1 tách trà xanh/ngày bị tàn phế chức năng so với chỉ 7% số người uống ít nhất 5 tách trà/ngày.
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí American Journal of Clinical Nutrition.
7. Massage thường xuyên mang ích lợi cho cơ bắp
Nếu bạn thường xuyên dựa vào massage để giảm đau và cả thiện sức khỏe nghiên cứu mới đã cho thấy massage sau một ngày lao động mệt nhọc có thể còn mang lại nhiều lợi ích hơn.
Theo nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Canada, những người làm việc 70 phút và massage sau đó có thể làm gia tăng đáng kể sự sản sinh năng lượng tại các tế bào cơ và làm giảm chứng viêm nhiễm hay chấn thương ở hệ cơ do lao động mang lại.
Nghiên cứu trên được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine.
Chủ nhiệm nhóm nghiên cứu cơ thần kinh và trao đổi chất thuộc Đại học McMaster ở Hamilton, Ontario, Tiến sỹ Mark Tarnopolsky, cho biết trong nhiều năm qua, người ta từng massage với số lượng không nhiều và mang tính khoa học.
Ông nói: “Công việc của chúng tôi đặt ra một khả năng thú vị rằng việc tập luyện theo từng giai đoạn đều đặn có thể được tăng cường hoặc ít nhất là sẽ giúp phát sinh những lợi ích đối với những ai thường xuyên massage sau mỗi bài tập”.
Trong nghiên cứu này, 11 nam thanh niên luyện tập với sức lực tối đa trong vòng 70 phút và sau đó được nghỉ ngắn với chân được xoa bóp trong 10 phút trong khi những người khác chỉ nghỉ ngơi mà không được massage.
Các nhà nghiên cứu sau đó đã phân tích những mẫu cơ thu được từ chân các tình nguyện viên, cho thấy sự thay đổi đáng kể ở những nhóm cơ được massage, trong đó có sự gia tăng sản sinh các ti thể vốn được coi là “ngôi nhà chứa các tế bào và sự gia tăng các ti thể này là cốt lõi của những lợi ích đạt được nhớ massage đều đặn”.
Điều thú vị nhất mà nghiên cứu này phát hiện ra đó là massage không làm giảm acid lactic - một loại chất sản sinh sau quá trình tập luyện - như những gì chúng ta từng được biết lâu nay.
Một nghiên cứu khác xuất bản vào năm ngoái cho thấy điều trị massage 10 tuần liền có thể giúp làm giảm cơn đau hơn là điều trị và tập luyện và hiệu quả của nó kéo dài tới 6 tháng.
8. Phát hiện mới về thụ tinh trong ống nghiệm
Một nghiêm cứu mới đây đã phản bác lại quan niệm bấy lâu nay của chúng ta vẫn lầm tưởng rằng phụ nữ càng lớn tuổi nguy cơ gặp phải các biến chứng khi mang thai càng cao.
Công trình nghiên cứu tại trung tâm y tế trường đại học Columbia đã tiến hành trên 101 phụ nữ mãn kinh áp dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm nhờ trứng hiến tặng. Họ phát hiện ra rằng, với phương pháp này, phụ nữ lớn tuổi có khả năng thụ thai là tương đương so với người trẻ tuổi.
Cùng với đó, các biến chứng như đái đường trong kỳ mang thai hay đẻ non cũng có khả năng xảy ra là như nhau đối với các sản phụ trên 50 hay dưới 42 tuổi.
Điều khác biệt duy nhất ở hai nhóm tuổi này là huyết áp của phụ nữ lớn tuổi có thể cao hơn một chút. Tác giả của bài báo, tiến sĩ Mark Sauer, chia sẻ với tờ LiveScience: “Những sản phụ này đã làm rất tốt. Nếu được chăm sóc cẩn thận và chu đáo, mọi việc sẽ ổn cả thôi”.
Ông giải thích là trên thực tế, số lượng trứng được sản xuất ra sẽ giảm dần theo độ tuổi, nhưng khả năng thụ thai bằng trứng hiến tặng thì không thay đổi nhiều. “Tử cung và buồng trứng là hai cơ quan rất khác nhau”, ông nói.
Tiến sĩ Sauer để tâm nhận thấy trong nghiên cứu của mình, tất cả chị em phụ nữ đều là những người có tiền, có học thức, do vậy họ rất biết cách chăm sóc sức khỏe của bản thân. Tuy nhiên tỷ lệ phụ nữ mang thai trên 50 tuổi vẫn chưa cao.
Mặc dù không thể phủ nhận rằng ngày nay độ tuổi trung bình của sản phụ mang thai đứa con đầu lòng ngày càng già hơn. Trong vòng 10 năm qua, số bà mẹ trên 45 tuổi đã tăng gấp đôi ở Mỹ.
Nhờ công nghệ tiên tiến và y học hiện đại mà con số này đã tặng lên đáng kể. Trứng đông lạnh đã giúp chị em phụ nữ duy trì khả năng làm mẹ lâu hơn. Các bác sĩ sản phụ lập luận thêm rằng, thời nay phụ nữ ở độ tuổi 50 cũng có sức khỏe và thân hình cân đối như những người kém họ 10 -15 tuổi.
Xác suất thành công của trứng thụ tinh trong ống nghiệm là khoảng 50%. Tiến sĩ Sauer còn nói thêm rằng những người nổi tiếng mà muốn có con ở độ tuổi này thường dùng trứng hiến tặng, mặc dù có thể họ chỉ miễn cưỡng sử dụng thôi.
9. Thuốc viên tránh thai giúp giảm đau bụng kinh
Thuốc viên tránh thai dạng uống có thể giúp giảm triệu chứng đau quặn, chướng bụng ở phụ nữ trong ngày “đèn đỏ”.
Có thêm bằng chứng cho thấy sử dụng thuốc viên tránh thai dạng uống có thể giúp giảm triệu chứng đau quặn, chướng bụng ở phụ nữ trong ngày “đèn đỏ”.
Một nghiên cứu kéo dài 30 năm của các nhà khoa học Thụy Điển cho thấy phụ nữ sử dụng thuốc viên tránh thai dạng viên kết hợp (có cả estrogen và prgestin) ít bị đau bụng kinh hơn phụ nữ không dùng thuốc.
Nghiên cứu được tiến hành ở 3 nhóm phụ nữ, mỗi nhóm gồm 400-520 người. Họ được hỏi về chu kỳ kinh nguyệt, đau bụng kinh, tiền sử sinh đẻ, sử dụng thuốc tránh thai, chiều cao và cân nặng.
Sau khi phân tích, các nhà khoa học thấy rằng phụ nữ trẻ thường bị đau bụng kinh nhiều hơn phụ nữ lớn tuổi. Mặc dù mức độ đau bụng kinh giảm khi độ tuổi tăng song việc sử dụng thuốc viên tránh thai còn có tác dụng giảm đau kỳ kinh tốt hơn.
Các kết quả nghiên cứu được đăng trực tuyến trên tạp chí Human Reproduction.
10. Nên ăn trứng vào buổi sáng
Trứng là thực phẩm lý tưởng nên ăn vào bữa sáng để đảm bảo đủ lượng dinh dưỡng cần thiết trong ngày. Trong trứng có chứa cholin, một loại vitamin B giúp cải thiện chức năng hệ thống thần kinh và sức khỏe tim mạch.
Trứng cũng chứa riboflavin, một chất được sử dụng trong quá trình chuyển hóa carbohydrat và chất béo, giúp cơ thể trở nên gọn gàng hơn, thúc đẩy giảm cân. Một nghiên cứu thử nghiệm 160 người thừa cân và so sánh hiệu quả khi họ ăn bữa sáng với 2 quả trứng hoặc với bánh mì có chứa cùng một lượng calo. Kết quả, những người ăn trứng đã giảm kích thước vòng eo và họ cảm thấy tràn đầy sinh lực hơn những người ăn bánh mì. Bởi protein trong trứng giúp cơ thể có đầy đủ năng lượng cần thiết, ngăn cản bạn ăn thức ăn có nhiều chất béo và đường.
Trung bình một quả trứng có chứa khoảng 3,5g protein, chỉ có 20 calo và không có chất béo, bởi vậy trứng luộc cũng là món ăn giúp cơ thể khỏe mạnh và phục hồi cơ bắp sau khi tập thể dục.
11. Sôcôla có thể giảm nguy cơ ung thư ruột
Tin vui cho những người thích sôcôla: nhấm nháp loại thực phẩm này một cách vừa phải có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ruột. Đó là kết quả của cuộc nghiên cứu do Viện Công nghệ và khoa học về thực phẩm và dinh dưỡng ở Tây Ban Nha thực hiện.
Các cuộc nghiên cứu trước đó phát hiện rằng hạt cocoa đặc biệt giàu các chất chống ôxy hóa tự nhiên cực mạnh, có thể nhanh chóng tiêu diệt những phân tử có hại như các hạt tự do trong cơ thể. Trong cuộc nghiên cứu mới nhất, trưởng nhóm Maria Arribas đã tiến hành thí nghiệm trên chuột, với một nhóm chuột hấp thu lượng thức ăn chứa 12% cocoa trong vòng 8 tuần, trong khi nhóm còn lại không được ăn cocoa.
Suốt thời gian đó, cả 2 nhóm bị tiêm chất sinh ung thư là azoxymethan, yếu tố gây nên ung thư ruột. Trong vòng 4 tuần kể từ khi bị tiêm chất này, nhóm chuột không ăn cocoa bắt đầu phát triển các khối u ác tính trong ruột, còn nhóm ăn cocoa ít xuất hiện các thương tổn tiền ung thư hơn. Đây cũng là cuộc nghiên cứu đầu tiên cho rằng cocoa có thể giúp ngăn chặn ung thư ruột.
12. Chế độ ăn nhiều mỡ động vật và tiểu đường thai nghén
Một nghiên cứu mới đây cho thấy chế độ ăn nhiều mỡ động vật trước khi mang thai làm tăng nguy cơ tiểu đường thai nghén.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích số liệu từ hơn 13.000 phụ nữ trong Nghiên cứu Sức khỏe điều dưỡng viên II.
Những phụ nữ này độ tuổi từ 22 đến 45 khi tham gia nghiên cứu và cung cấp thông tin về thói quen sức khỏe và lối sống vài năm/lần.
Khoảng 6% cho biết họ có chẩn đoán tiểu đường thai nghén, một dạng tiểu đường xảy ra trong thời gian mang thai. Tiểu đường thai nghén làm tăng nguy cơ một số biến chứng thai kỳ và các vấn đề sức khỏe ở trẻ sơ sinh.
Những phụ nữ tiêu thụ nhiều mỡ động vật nhất dễ bị tiểu đường thai nghén gấp gần 2 lần so với những người tiêu thụ ít nhất.
Các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Harvard cho biết nguy cơ tiểu đường thai nghén không tăng ở những phụ nữ có chế độ ăn nhiều chất béo toàn phần hoặc các dạng chất béo khác.
Nhóm nghiên cứu kết luận rằng chuyển 5% calo trong chế độ ăn từ chất béo động vật sang các nguồn từ thực vật có thể giảm 7% nguy cơ thiểu đường thai nghén.
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí American Journal of Clinical Nutrition.
13. Mỗi ngày 1 ly sữa để tăng cường trí não
Một nghiên cứu cho thấy những người uống sữa thường xuyên – hoặc tiêu thụ các sản phẩm khác từ sữa như sữa chua, bơ và thậm chí là kem – thực hiện các bài kiểm tra trí tuệ tốt hơn.
Các nhà khoa học đã yêu cầu 972 nam giới và phụ nữ hoàn thành các khảo sát chi tiết về chế độ ăn bao gồm mức độ tiêu thụ các sản phẩm sữa, ngay cả chỉ dùng sữa với trà và cà phê.
Các đối tượng này, độ tuổi từ 23-98, sau đó hoàn thành 8 kiểm tra nghiêm ngặt về khả năng tập trung, ghi nhớ và học tập.
Được đăng tải trên tờ International Dairy Journal, nghiên cứu cho thấy người lớn tiêu thụ các sản phẩm sữa ít nhất 5 hoặc 6 lần/tuần thực hiện các tét kiểm tra trí nhớ tốt hơn so với những người hiếm khi sử dụng sữa.
Trong một số bài test khác thì những người lớn hiếm khi sử dụng các sản phẩm từ sữa cũng dễ bị trượt gấp 5 lần so với những người tiêu thụ từ 2 đến 4 sản phẩm sữa/tuần.
Các tác giả nói những lợi ích mới của sữa đối với sức khỏe não bộ đã bổ sung thêm một lý do nữa để mọi người nên bắt đầu ngày mới bằng một ly sữa ít béo hoặc không béo.
Các nhà nghiên cứu từ Trường Đại học Maine ở Mỹ tin rằng một số dưỡng chất như magiê có trong các sản phẩm sữa có thể giúp phòng ngừa mất trí nhớ.
14. Dầu cá giảm đau do viêm khớp
Các chuyên gia quốc tế đã tìm ra chứng cứ xác thực cho thấy hấp thu dầu cá, dù chỉ một lượng nhỏ mỗi ngày, có thể giảm đau khớp ở những bệnh nhân bị viêm khớp mạn tính.
Đó là kết quả nghiên cứu do một số trường đại học, bệnh viện tại Úc và Tasmania thực hiện trong vòng 2 năm ở các bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 60. Không những giảm đau, chế độ ăn gồm dầu cá còn bớt đi tình trạng viêm nhiễm ở các khớp, từ đó cải thiện mạnh khả năng vận động ở người bệnh. Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu cũng xác định dầu cá liều cao không làm tăng hiệu quả chữa trị ở bệnh nhân so với liều thấp, dù các chuyên gia vẫn chưa tìm ra nguyên nhân của tình trạng này.