Tuesday, April 10, 2012

Tin vắn y học tháng 4 - 2012

1. Cà phê có thể giúp chống ung thư da

Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ công bố ngày 4/4 cho thấy, sự kết hợp giữa thói quen uống cà phê và việc tập thể dục có thể chống lại bệnh ung thư da do ánh nắng mặt trời.

Ông Yao-Ping Lu, phó giáo sư tiến sĩ nghiên cứu hóa học kiêm giám đốc trường đại học dược Rutgers Mario Ernest ở Piscataway, đã trình bày những phát hiện trên tại Hội nghị thường niên AACR năm 2012, tổ chức tại Chicago từ ngày 31/3 - 4/4.

Các nhà nghiên cứu đã đánh giá những tác động tổng hợp của cà phê và việc rèn luyện thân thể ở những con chuột có nguy cơ phát triển ung thư da cao. Các nhà khoa học đã cho những chú chuột này thường xuyên uống các liều cà phê và thực hiện việc rèn luyện thân thể thông qua hình thức chạy.

Kết quả cho thấy sự phát triển của ung thư da ở chúng đã giảm tới 62% và khối lượng của khối u cũng giảm 85% so với những con không thử nghiệm phương pháp trên.

Tác động tích cực của càphê hoặc tập thể dục cũng cho thấy hiệu quả khi áp dụng riêng lẻ, tuy nhiên đạt kết quả ở mức độ ít hơn.

Các nhà nghiên cứu quan sát thấy những con chuột áp dụng phương pháp uống càphê thì sự phát triển khối u giảm tới 27% và kích thước khối u giảm 61%. Trong khi những con chuột chỉ tập thể dục, thì khả năng phát triển của khối u giảm 35% và kích thức khối u giảm 70%.

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng tập thể dục và dùng cà phê điều độ còn giúp làm giảm trọng lượng cơ thể, chữa bệnh béo phì và kháng viêm.

Ông Lu nhấn mạnh "Tôi tin rằng chúng ta sẽ có thể áp dụng phương pháp kết hợp hiệu quả này ở người, để chữa bệnh ung thư và béo phì trong thời gian tới".
2. Lưu ý dùng thuốc kháng sinh cho mắt

Theo một nghiên cứu mới được công bố ngày 4/4 trên tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, những người uống thuốc kháng sinh có tên là fluoroquinolon, một loại thuốc dùng để chống lại các bệnh nhiễm khuẩn có liên quan đến vấn đề về mắt như đục giác mạc, bệnh thần kinh thị giác và xuất huyết võng mạc thì sẽ có nguy cơ bị bong võng mạc, một căn bệnh nghiêm trọng có thể dẫn đến mù lòa.

Tiến sĩ Mahyar Etminan thuộc Viện nghiên cứu Gia đình và Trẻ em ở thành phố Vancouver, bang British Columbia, Canada cho biết: “Đây là loại kháng sinh mạnh chỉ nên sử dụng ở những bệnh nhân thực sự cần thuốc”.

Nhóm nghiên cứu của Etminan đã phân tích hồ sơ của gần 1 triệu bệnh nhân đi kiểm tra mắt trong khoảng thời gian từ tháng 1/2000 tới 12/2007 thì có hơn 4.300 bệnh nhân bị bong võng mạc, trong đó 3,3% đang sử dụng thuốc fluoroquinolon.

Nghiên cứu cũng cho thấy, những người dùng thuốc fluoroquinolon có nguy cơ bị bong võng mạc cao gần gấp 5 lần người bình thường.
3. 5 tiết lộ thú vị về nước bọt

Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học John Hopkins (Mỹ), nước bọt là một “kho tàng dữ liệu” giúp vén bức màn sinh học bí mật của con người và là một công cụ hữu ích trong công tác phòng và ngừa bệnh.

Báo hiệu bệnh tim mạch

1/3 số bệnh nhân tử vong vì đau tim không hề biết rằng trong cơ thể mình chứa hàm lượng cholesterol cao bất thường. Do các xét nghiệm máu nhằm phát hiện dấu hiệu căn bản của bệnh tim mạch thường gây đau đớn, mất thời gian và nhiều công sức, nên phần lớn các bệnh nhân đều không tiến hành đủ các xét nghiệm cần thiết.

Theo các nhà khoa học, nước bọt chứa một loại protein có tên protein phản ứng C, giúp phát hiện nguy cơ tim mạch nhanh chóng và chính xác hơn nhiều so với xét nghiệm máu.

Mối quan hệ giữa cha - con gái

Nghiên cứu cho thấy con gái gần gũi với bố sẽ dậy thì muộn hơn các bạn cùng trang lứa, yêu muộn hơn và có xu hướng chung thủy trong chuyện tình cảm. Bí ẩn nằm trong tuyến nước bọt của người con.

Theo các nhà khoa học, nếu mối quan hệ giữa cha và con gái không thuận hòa, hàm lượng hormon stress cortisol trong nước bọt của người con gái sẽ thấp hơn mức thông thường vào buổi sáng và tăng cao khi cô chia sẻ lo lắng với bạn bè. Hiện tượng thiếu cân bằng về hàm lượng hormon này biểu hiện sự nhạy cảm quá mức đối với các tình huống căng thẳng, về lâu dài sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới sự lựa chọn trong cuộc sống cũng như năng lực tiết chế stress.

Dấu hiệu của stress

Stress làm kích hoạt phản ứng “chống hoặc chạy” của cơ thể, kéo theo một loạt các hiện tượng như tăng tiết adrenaline, tim đập nhanh và tuyến nước bọt tăng cường hoạt động. Khi đó, nước bọt sẽ tiết ra enzym alpha-amylase (sAA), vốn được các nhà khoa học coi là dấu hiệu của stress.

Một nghiên cứu của Đại học John Hopkins cho thấy có thể dựa vào việc điều tiết hàm lượng sAA để tiết chế ảnh hưởng từ stress của phụ nữ mang bầu lên thai nhi.

Tăng cường hệ miễn dịch

Thói quen nhai và mớm cơm cho trẻ được chứng minh là một cách hiệu quả giúp tăng cường hệ miễn dịch cho các bé.

Việc cho trẻ làm quen với các mầm bệnh từ nước bọt của người mẹ sẽ kích hoạt cơ thể chúng sản sinh nhiều kháng thể, dạy cho hệ miễn dịch cách xử lý khi bắt gặp những mầm bệnh tương tự sau này trong đời, đặc biệt giúp trẻ giảm nguy cơ mắc hen suyễn.

Ngoài ra, nước bọt còn chứa một số những kháng thể nhất định, giúp làm giảm khả năng lây nhiễm của vi khuẩn.

Bảng mã gen di truyền

Nước bọt không những chứa đầy đủ các yếu tố của gene trong cơ thể mà mẫu ADN chiết xuất từ nước bọt còn dễ phân tích hơn các mẫu ADN thu được từ các phương pháp khác.

Hơn nữa, các mẫu nước bọt có thể làm đông lại hoặc rã đông rất nhiều lần, đồng thời cho phép chiết xuất ADN với số lượng lớn, chất lượng cao.
4. Ớt tốt cho phụ nữ có thai

Quả ớt cay xè, ngoài chức năng làm một gia vị trong các món ăn, cũng có tác dụng rất tốt trong phòng bệnh, đặc biệt có lợi cho phụ nữ mang thai nếu dùng một lượng vừa đủ mỗi ngày.

Trong mỗi 100g ớt có tới 198mg vitamin C, ngoài ra vitamin B2 và các khoáng chất như calci, sắt cũng rất phong phú, giúp phụ nữ có thai nâng cao khả năng miễn dịch.

Trị ho, cảm: Lượng vitamin C phong phú trong quả ớt có thể kiểm soát các bệnh xơ hóa động mạch cũng như các bệnh về tim, giảm nguy cơ... Ngoài ra, ớt còn chứa khá nhiều chất chống ôxy hóa, có thể dự phòng chứng ung thư và nhiều bệnh mãn tính, chữa các bệnh về đường hô hấp, ho, cảm cúm.

Tạo cảm giác thèm ăn: Khi phụ nữ có thai cảm thấy không muốn ăn hoặc buồn nôn khi ăn, có thể thêm một vài sợi ớt vào trong món xào, nấu, giúp kích thích dịch vị, ăn ngon miệng hơn.

Thúc đẩy tuần hoàn máu: Ớt có tác dụng thúc đẩy máu lưu thông rất mạnh, vì vậy có thể cải thiện tình trạng sợ lạnh, đau đầu do các nguyên nhân ở mạch máu khi mang thai gây nên.

Làm đẹp da: Trong thai kỳ, phụ nữ thường bị sạm da. Hãy nghĩ đến ớt vì trong ớt có rất nhiều chất đặc thù với hiệu quả đốt cháy mỡ dư thừa và đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, nhờ vậy vừa giúp thai phụ giữ được làn da sáng đẹp, hơn nữa còn không bị thừa cân suốt thai kỳ.

Điều đáng nói là, dù ớt có nhiều công dụng như vậy, nhưng phụ nữ có thai chỉ nên ăn một lượng vừa phải. Ớt có chứa những chất làm tê liệt thần kinh, nên tạo thành những ảnh hưởng nhất định đối với hệ thần kinh của thai nhi, do vậy khi ăn ớt phải dừng trước khi cảm thấy tê miệng, lưỡi. Riêng đối với những người bánh nhau ngả trước, tuyệt đối không nên ăn ớt trong suốt thai kỳ.
5. Quả bơ giúp chống bệnh nhiễm trùng

Một nghiên cứu mới đây cho thấy, loại quả nhiệt đới ở Chilê này có chứa chất giúp ngăn chặn khả năng từ chối kháng sinh của vi khuẩn tụ cầu vàng - nguyên nhân phổ biến nhất gây ra hiện tượng nhiễm trùng vết thương.

Chất này tạo ra sự đề kháng đặc biệt nhanh chóng trước những chủng không phản ứng đối với việc điều trị đã từng được tìm thấy ở Mỹ và Hy Lạp.

Jes Gitz Holler cho biết: “Tôi đã phát hiện ra một chất tự nhiên trong cây bơ Chile có thể dùng trong điều trị kết hợp với các chất kháng sinh thường dùng. Vi khuẩn kháng có một van bơm một chiều ra ngoài ở màng tế bào của chúng, van này sẽ thải kháng sinh ra một cách hoàn toàn khỏi tế bào vi khuẩn khi chúng nhiễm kháng sinh. Tôi đã xác định được chất tự nhiên ức chế hoạt động bơm, khiến cơ chế phòng vệ của vi khuẩn bị phá vỡ và điều trị bằng kháng sinh sẽ có kết quả”.

Nghiên cứu sinh này đã tập hợp các mẫu cây trồng ở Chile để tiến hành nghiên cứu. Kết quả sau đó đã được công bố trên tạp chí Hóa học trị liệu vi sinh vật.

Gitz Holler còn cho biết: “Các hợp chất tự nhiên có tiềm năng lớn và trong thời gian tới có thể trở thành loại thuốc hiệu quả để chống lại kháng khuẩn tụ cầu. Tại thời điểm này chưa có sẩn phẩm nào trên thị trường có cùng cơ chế như vậy”.

Vi khuẩn tụ cầu vàng là nguyên nhân chủ yếu của các nhiễm trùng vết thương. Tuy nhiên nó cũng là nguyên nhân của nhiều bệnh nhiễm trùng khác, từ bệnh áp-xe hay ngộ độc thực phẩm đến các bệnh đe dọa tính mệnh con người như viêm màng tim và nhiễm trùng máu.

Vi khuẩn là mối quan tâm lớn tại các bệnh viện trên toàn thế giới. Ngành công nghiệp dược phẩm luôn tìm cách phát triển những loại kháng sinh mới. Tuy nhiên chi phí nghiên cứu cao đang hạn chế quá trình này, nhất là với các loại thuốc chữa bệnh mạn tính như bệnh tiểu đường chẳng hạn. Vì thế phát hiện mới này của Jes Gitz Holler hứa hẹn một đột phá trong y học.
6. Bổ sung multivitamin không phòng được nhiệt miệng

Một nghiên cứu mới đây cho thấy mặc dù thiếu hụt vitamin có liên quan tới viêm loét miệng song bổ sung multivitamin hàng ngày cũng không giúp phòng tránh nhiệt miệng.

Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học đã lựa chọn ngẫu nhiên 83 người lớn vào nhóm nghiên cứu và 77 người khác vào nhóm đối chứng. Tất cả các đối tượng đều đã bị ít nhất 3 lần nhiệt miệng trong năm trước.

Trong một năm, nhóm đối tượng nghiên cứu được uống multivatimin hàng ngày theo đúng liều khuyến nghị và nhóm đối chứng dùng giả dược. Tất cả các đối tượng ở cả 2 nhóm đều ghi lại nhật ký từng ngày uống multivitamin, từng đợt nhiệt miệng, mức độ đau và ảnh hưởng của chế độ ăn tới vết loét trong miệng.

Tất cả các đối tượng ở cả 2 nhóm đều bị khoảng 4 đợt nhiệt miệng trong thời gian nghiên cứu (4 năm), mỗi đợt kéo dài khoảng 8 ngày. Không có sự khác nhau về mức độ đau và khả năng ăn một số loại thực phẩm giữa 2 nhóm.

Phần lớn bệnh nhân bị nhiệt miệng nhẹ có thể tự khỏi trong vòng 7-10 ngày mà không cần điều trị. Nhiệt miệng hay xảy ra nhất ở thanh thiếu niên và người trưởng thành trẻ tuổi trong thời gian diễn ra thi cử hoặc trong khoảng thời gian stress kéo dài.

Nghiên cứu được đăng trên tờ Journal of the American Dental Association.
7. Kháng sinh an toàn để điều trị viêm ruột thừa

Mặc dù phẫu thuật là thực hành chuẩn trong điều trị bệnh viêm ruột thừa song viêm ruột thừa cấp không có biến chứng có thể được điều trị an toàn và hiệu quả bằng kháng sinh.

Các nhà nghiên cứu đã tiến hành một phân tích gộp gồm 4 thử nghiễm ngẫu hóa gồm 900 bệnh nhân bị viêm ruột thừa cấp không biến chứng, trong đó 470 người được điều trị bằng kháng sinh và 430 người được phẫu thuật cắt ruột thừa.

Kết quả cho thấy bệnh nhân được điều trị bằng kháng sinh có nguy cơ bị biến chứng thấp hơn đáng kể.

Tuy nhiên, 20% bệnh nhân điều trị bằng kháng sinh được cắt ruột thừa sau khi nhập viện lại. Thời gian nằm viện, hiệu quả điều trị và nguy cơ bị viêm ruột thừa có biến chứng tương tự giữa hai nhóm.

Nhóm nghiên cứu kết luận rằng điều trị bằng kháng sinh cho bệnh viêm ruột thừa không có biến chứng được xem là cách điều trị ban đầu an toàn và hiệu quả. Bắt đầu sử dụng kháng sinh cho bệnh nhân khi có chẩn đoán bị viêm ruột thừa cấp tính không có biến chứng kết hợp với đánh giá lại có thể giảm khả năng phải phẫu thuật cắt ruột thừa.
8. Vây cá mập gây bệnh Alzheimer

Vây loài cá mập ở vùng biển Florida có chứa một hàm lượng cao độc tố thần kinh.

Kết luận gây giật mình này vừa được đăng trên tạp chí “Thuốc hải dương” của Mỹ, cho thấy vây cá mập, thứ thực phẩm vốn được coi là có giá trị lớn trong việc bồi bổ sức khỏe con người lại làm tăng nguy cơ mất trí nhớ vì hàm lượng độc tố thần kinh quá cao bên trong nó.

Các nhà khoa học thuộc Thư viện não, Đại học Miami, Mỹ đã nghiên cứu nồng độ độc tố đối với vây của 7 loại cá mập gồm cá mập vây đen, cá mập bò, cá mập trắng lớn, cá mập nurse, cá mập đầu búa, cá mập đầu hẹp, cá mập chanh. Kết quả cho thấy trong vây loài cá mập ở vùng biển Florida có chứa một hàm lượng cao độc tố thần kinh có tên beta-methylamino-L-alanine (BMAA).

Nhiều nghiên cứu trước đó khẳng định rằng, chất này có liên quan chặt chẽ với chứng Alzheimer và bệnh về nơ-ron thần kinh vận động. Với kết quả nghiên cứu này, các nhà khoa học hy vọng hành vi giết cá mập lấy vây sẽ được hạn chế phần nào.
9. Ăn bắp cải tránh ung thư vú

Theo các nhà khoa học, tất cả các loại rau họ cải như súp lơ, cả i xoăn, cải bắp… có vai trò đáng kể trong việc ngăn ngừa và điều trị ung thư vú.

Hiệp hội Nghiên cứu Ung thư Mỹ công bố một nghiên cứu thực hiện từ hơn 4.800 người Trung Quốc mắc bệnh ung thư vú năm 2002 và 2006, cho thấy những phụ nữ ăn nhiều loại rau họ cải giảm được đến 62% nguy cơ tử vong so với người ít ăn.

Sarah Nechuta – một thành viên nhóm nghiên cứu - cho biết họ rau cải như súp lơ, cải củ, cải bắp… chứa một lượng lớn glucosinolates có khả năng thủy phân các hoạt chất sinh học như isothiocyanates và indoles, giúp ngăn ngừa sự phát triển của ung thư.

Các nghiên cứu trong tương lai sẽ tập trung xem xét ở liều lượng nào của các hoạt chất này tấn công vào tế bào ung thư hiệu quả nhất.

Hiệp hội Ung thư Mỹ khuyến khích mỗi người nên tiêu thụ ít nhất hai chén rưỡi rau quả với nhiều màu sắc như xanh đậm, vàng, đỏ… mỗi ngày để giảm nguy cơ ung thư xuống thấp nhất.

Emily Ho – một giáo sư về dinh dưỡng tại Đại học Oregon - nói: “Nếu bạn cố gắng thêm vào các loại rau cải trong khẩu phần ăn, nó chắc chắn sẽ tác động tích cực đến sức khỏe của bạn”.

10. Muốn nhanh có con, hãy chăm tập thể dục

Theo một nghiên cứu mới thì những phụ nữ đang cố gắng có con thì nên tập thể dục ở mức vừa phải vì nó giúp tăng tỷ lệ thụ thai thành công.

Tiến sĩ Lauren Wise ở Đại học Boston và các đồng nghiệp ở Mỹ và Đan Mạch đã theo dõi hơn 3500 phụ nữ Đan Mạch trong độ tuổi 18-40 đang cố gắng thụ thai trong thời gian hơn 1 năm. Tất cả các đối tượng đều thông báo là đang có quan hệ tốt với chồng và chưa từng được điều trị sinh sản.

Những phụ nữ này ước tính số giờ mỗi tuần mà họ dành ra để luyện tập thể dục trong năm ngoái cũng như cường độ luyện tập.

Qua thời gian nghiên cứu, gần 70% phụ nữ đã có thai. Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy luyện ở mức độ vừa phải như đi bộ, đạp xe hay làm vườn giúp tất cả các đối tượng dễ thụ thai hơn bất kể trọng lượng cơ thể.

Phụ nữ dành hơn 5 giờ/tuần luyện tập ở mức độ vừa phải sẽ tăng 18% khả năng thụ thai so với phụ nữ chỉ luyện tập ít hơn 1 giờ/tuần.

Tuy nhiên, phụ nữ có trọng lượng bình thường hay rất gầy đồng thời thông báo luyện tập ở cường độ cao như chạy hoặc thể dục nhịp điệu thì mất thời gian lâu hơn để thụ thai thành công.
11. Thuốc chống đái tháo đường trị ung thư?

Thông tin từ hội nghị thường niên của Hiệp hội Nghiên cứu ung thư Mỹ (AACR) cho biết metformin, một loại thuốc phổ biến điều trị bệnh đái tháo đường týp 2, có thể mang lại ích lợi trong việc điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng cảnh báo đây chỉ là kết quả bước đầu.

Nghiên cứu được thực hiện trên 22 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. Họ được cho uống metformin ba lần/ngày từ khi bắt đầu được chẩn đoán đến lúc phẫu thuật cắt bỏ khối u. Kết quả sinh thiết cho thấy metformin làm chậm lại sự tăng trưởng của tế bào khối u.

Các nhà nghiên cứu đặt ra giả thuyết có thể metformin đã phá vỡ con đường làm tế bào bình thường trở thành tế bào ung thư. Nó có thể làm chậm quá trình chuyển hóa của tế bào ung thư và làm chúng chết dần.
12. Cảnh báo thuốc giảm béo do Trung Quốc phân phối

FDA Hoa Kỳ vừa ra khuyến cáo không sử dụng một số loại thuốc giảm béo cấp tốc do bị nghi chứa chất sinh ung thư.

FDA ngày 3/4 thông báo người tiêu dùng nên ngưng ngay việc uống thuốc có tên là “Japan Rapid Weight Loss Diet Pills” (tức thuốc giảm béo cấp tốc của Nhật).

Đây là sản phẩm do Công ty Xiushentang, trụ sở tại Quảng Châu, phân phối thông qua nhiều website, trong đó có Amazon.com.

Người tiêu dùng được khuyên nên từ bỏ ngay những loại thuốc này, được đóng gói theo 3 màu xanh lá, xanh dương và vàng. FDA cảnh báo nên gặp bác sĩ tư vấn nếu người tiêu dùng phát hiện cơ thể có vấn đề.

Kết quả phân tích do FDA thực hiện đã xác nhận thuốc giảm béo màu xanh lá, tên tiếng Anh là “Japan Rapid Weight Loss Diet Pills Green”, chứa phenolphthalein, thường dùng trong các thí nghiệm hóa học. Đây cũng là chất bị liệt vào dạng sinh ung thư và bị cấm bán tại Mỹ.

Theo nội dung khuyến cáo được AFP dẫn lại, FDA cho biết phenolphthalein có thể hủy hoại và thậm chí gây đột biến ADN ở con người.

Một thông báo tương tự cũng được áp dụng cho thuốc “Japan Rapid Weight Loss Diet Pills Yellow”, vì nó chứa cả phenolphthalein và sibutramine, chất gia tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ.

Sản phẩm thứ ba “Japan Weight Loss Blue” chứa sibutramine và ephedrine alkaloids. Sản phẩm chứa hợp chất gốc ephedra bị cấm vì có thể nâng huyết áp lên mức nguy hiểm.
13. Bị tiểu đường nên bớt muối

Thực phẩm có hàm lượng sodium (chất trong muối ăn) cao có thể góp phần gây huyết áp cao, tác nhân chính làm tăng nguy cơ đột quỵ và đau tim.

Vấn đề này càng phức tạp ở bệnh nhân tiểu đường, những người thường có nguy cơ cao bị đau tim và đột quỵ. Sau đây là một số gợi ý giúp bạn cắt giảm lượng muối ăn theo hướng dẫn của các chuyên gia thuộc Hiệp hội Bệnh tiểu đường Mỹ:

- Chọn ăn các loại trái cây và rau quả tươi.

- Chọn các loại đậu và đậu Hà Lan được sấy khô hơn là loại đóng hộp.

- Tìm những loại thực phẩm ngũ cốc nguyên hạt được đóng gói không chứa natri, bao gồm ngũ cốc nguyên hạt, bắp rang, gạo lức.

- Chọn ăn các loại hạt như đậu phộng, hạt điều, hạt dẻ, hạt hướng dương... không ướp muối.
14. Vì sao vỏ nho có tác dụng chống lão hóa hiệu quả?

Sử dụng thực phẩm tự nhiên chống ôxy hóa đang là một phương pháp trị liệu chống lão hóa được yêu thích trên thế giới.

Một nghiên cứu của Đại học Harvard chỉ ra rằng resveratrol có tác dụng hiệu quả trong việc chống ôxy hóa. Resveratrol tồn tại trong vỏ nho và là một chất chống lại sự xâm lược của nấm, được tạo ra bởi dây leo của cây nho.

Resveratrol không những chứa chất chống ôxy hóa mà còn có thể phòng tránh được các bệnh tim mạch và các bệnh ung thư.

Một cuộc điều tra của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy rằng, mặc dù người Pháp rất yêu thích các loại bơ nhưng tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành và tỷ lệ tử vong vì căn bệnh này của người Pháp vẫn thấp hơn ở những quốc gia phương Tây khác. Các chuyên gia cho rằng điều này có thể liên quan đến việc người Pháp thường xuyên uống các loại rượu vang.

Vỏ nho, đặc biệt là vỏ nho tím còn chứa chất flavonoid giúp giảm huyết áp, thúc đẩy lipoprotein mật độ cao trong máu tăng lên, làm giảm lượng cholesterol có hại, bảo vệ tim mạch. Ngoài ra, cellulose, pectin, và sắt có trong vỏ nho có thể bù đắp dinh dưỡng trong chế độ ăn hiện nay. Các chuyên gia khuyên rằng nên ăn nho cả quả cùng với vỏ và hạt, cơ thể sẽ hấp thu được nhiều chất dinh dưỡng hơn.

Các chuyên gia dinh dưỡng đã tìm thấy resveratrol trong 72 loại thực phẩm như đậu phông, dâu tằm... nhưng lượng resveratrol trong vỏ nho là cao nhất. Tuy nhiên nho lại không phải là loại trái cây nên ăn hàng ngày mặc dù nó chứa giá trị dinh dưỡng cao.
15. Tiến bộ mới trong điều trị bệnh vảy nến

Cả 2 thử nghiệm thuốc đều tập trung vào interleukin-17.

Hai nghiên cứu vừa đăng trên tạp chí chuyên ngành y khoa cho thấy những bước tiến mới trong việc điều trị bệnh vảy nến. Đây là bệnh da liễu phổ biến với các biểu hiện như viêm đỏ, da bong vảy, đau và ngứa.

Cả 2 thử nghiệm thuốc đều tập trung lên interleukin-17, một loại protein viêm đóng vai trò quan trọng trong bệnh vảy nến. Tuy nhiên, cơ chế tác dụng của mỗi loại thuốc khác nhau. Một loại tác dụng trực tiếp và trung hòa interleukin-17 và loại thuốc còn lại là một kháng thể đơn dòng liên kết với các thụ thể của interleukin-17.

Kết quả bước đầu cho thấy thuốc đã làm giảm khoảng 90% các triệu chứng bệnh ở 75% số bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Ngoài ra không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được ghi nhận. Theo các nhà nghiên cứu, liệu pháp này mang lại hiệu quả cao do có khả năng điều trị đúng mục tiêu gây bệnh.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...